Thứ Năm, 7 tháng 8, 2008

writeFolderTitle(PAGE_FOLDER);
VĂN HÓA
> NGHỆ SỸ
Thứ bảy, 15/1/2005, 10:14 GMT+7
E-mail Bản In
Hàn Mặc Tử - Mai Đình: Tình thơ hay tình yêu?
Mai Đình lúc gặp Hàn Mặc Tử.
Mai Đình thực ra không phải là một nàng thơ, cũng không phải là người tình của Hàn Mặc Tử... Đúng nghĩa, nàng là một người bạn văn chương của chàng. Nàng gặp Hàn Mặc Tử khi chàng đã lâm trọng bệnh, xa lánh tất cả mọi người để về ẩn mình trong một cái chòi tranh ở Gò Bồi, cách thành Quy Nhơn 15 cây số.
Mai Đình xuất thân trong một gia đình khá giả, nhưng mang trong mình dòng máu lãng mạn, nàng theo tiếng gọi bốn phương cất bước ra đi. Nhờ có nghề dạy nữ công gia chánh cho những gia đình giàu có nên Mai Đình kiếm kế sinh nhai khá dễ dàng. Nàng đã đặt chân đến nhiều vùng đất xa xôi, có khi qua tận Nam Vang. Năm 1937, Mai Đình đến Quy Nhơn. Trước đó nàng đã nghe danh Hàn Mặc Tử từ lâu. Là một người có cá tính mạnh mẽ, nàng không câu nệ, tìm cách giáp mặt chàng. Lần đầu tiên, Hàn Mặc Tử vì tự ti bệnh tật nên không chịu tiếp. Nàng bèn vào Nha Trang, thông qua Quách Tấn để "tiếp cận" chàng. Trong hồi ký của mình, Quách Tấn nhớ lại: "Gặp tôi, nàng không chút e lệ, ngồi nói chuyện như người quen biết đã lâu. Phê bình bài thơ Gái quê xong, nàng tỏ thật nỗi lòng đối với Tử: “Biết Tử mang bệnh ngặt nghèo, lòng tôi hết sức thương cảm. Tôi mong sao chia sớt được nỗi đau khổ của Tử một đôi phần”. Rồi nàng trách Mộng Cầm sao đành lòng bỏ Tử.
Bà Mai Đình sau hơn nửa thế kỷ.
Nàng gửi cho Quách Tấn bài thơ Biết anh để tặng Hàn Mặc Tử với những câu thơ thật mạnh dạn: "Còn anh em đã gặp anh đâu!/Chỉ cảm vần thơ có những câu/Âu yếm say sưa đầy cả mộng/Xui lòng tư tưởng lúc đêm thâu". Đây là bài thơ đầu tiên mở ra một tình bạn văn chương thú vị giữa hai người. Hàn Mặc Tử nhận được thơ, liền hồi âm nhưng Mai Đình đã đi khỏi Nha Trang. Chàng buồn rầu sáng tác bài Lưu luyến: "Chửa gặp nhau mà đã biệt ly/Hồn anh theo dõi bóng em đi/Hồn anh sẽ nhập trong luồng gió/Lưu luyến bên em chẳng nói gì".
Điều đặc biệt nhất trong mối quan hệ Mai Đình - Hàn Mặc Tử là nàng đã hành xử rất đúng với tinh thần văn chương: Tứ hải giai huynh đệ. Theo tài liệu của Trần Thanh Mại thì mùa hè năm 1938, Mai Đình từ biệt Quy Nhơn để vào Sài Gòn thu xếp công việc. Khi trở ra, Mai Đình đưa Hàn Mặc Tử một món tiền để lo thuốc thang và nói ý định của mình: sẽ ở lại trong cái chòi tranh cùng với chàng. Hàn Mặc Tử từ chối nhưng nàng mặc kệ, cứ ở đấy đi chợ nấu ăn, sắc thuốc cho chàng. Mai Đình không hề ngần ngại bệnh tật cũng như dư luận người đời.
Hàn Mặc Tử từ chỗ không muốn gặp mặt đến xúc động trước việc làm của Mai Đình nên đã có nhiều câu thơ tặng nàng: "Đây Mai Đình tiên nữ ở Vu Sơn/Đêm muộn xuống gieo vào muôn sóng mắt/Nàng, ôm nàng hai tay ta ghì chặt/Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay!". Ngoài lo việc cơm nước thuốc thang cho chàng, thời gian còn lại, nàng cùng chàng ngâm thơ vịnh cảnh. Hai tâm hồn thi sĩ sống bềnh bồng với những vần thơ như thế suốt một thời gian dài. Nhưng số tiền Mai Đình mang theo cũng đã hết. Nàng khuyên chàng vào Bệnh viện phong Quy Hòa để điều trị, nàng sẽ đi theo và ở luôn trong ấy để chăm sóc cho chàng. Nhưng Hàn Mặc Tử từ chối. Cuối cùng hai người phải từ giã nhau. Nàng lại cất bước giang hồ bốn phương. Lâu lâu, chàng lại nhận được cánh thư của nàng từ phương trời xa nào đó. Trong một lần ngồi buồn, chàng đem những từ ngữ trong bức thư nàng gửi xếp lại thành bài thơ. Đó là bài Thao thức với những câu thơ da diết: "Lạnh quá ánh trăng không sáng mấy/Cho nên muôn dặm ở ngoài kia/Em đang mong mỏi, em đang nhớ/Bứt rứt lòng em muốn trở về".
Mối tình thơ kỳ lạ giữa Mai Đình và Hàn Mặc Tử cùng với việc Mai Đình chăm sóc cho Hàn Mặc Tử được Trần Thanh Mại công bố vào năm 1942, một năm sau ngày Hàn Mặc Tử mãi mãi ra đi. Nhưng câu chuyện trên đây không được gia đình Hàn Mặc Tử thừa nhận và Quách Tấn thì cho rằng Trần Thanh Mại đã hoàn toàn bịa đặt. Tuy nhiên, những tài liệu của Trần Thanh Mại công bố đã thuyết phục được không ít người. Có người cho rằng, trước đây giữa nhà thơ Quách Tấn và nhà phê bình Trần Thanh Mại xảy ra vụ kiện bản quyền thơ Hàn Mặc Tử, liên quan trực tiếp đến cuốn sách Hàn Mặc Tử mà Trần Thanh Mại xuất bản năm 1942, xuất phát từ mâu thuẫn này mà nhà thơ Quách Tấn đã nói như vậy chăng?
(Theo Thanh Niên)

Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2008

TÔI ĐI HỌC

Truyện Ngắn THANH TỊNH
Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.
Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quý và không ra đồng nô hò như thằng Sơn nữa.
Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn.
Dọc đường tôi thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tôi, áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng một quyển vở cũng chì ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước o sách vở thiệt nhiều lại kèm cả bút thước nữa. Nhưng mấy cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hết.
Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:
- Mẹ đưa bút thước cho con cầm.
Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:
- Thôi để mẹ nắm cũng được.
Tôi có ngay cái ý kiến vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước.
Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi.
Trước sân trường làng Mỹ Lý đầy đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt cũng vui tươi và sáng sủa.
Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé trường một lần.
Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm tưởng gì khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng.
Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình Hòa Ấp. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ.
Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bở ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nữa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.
Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Chung quanh những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp.
Ông đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đứng lên trước lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ông đọc tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đang đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Sau khi đọc xong mấy mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói sẽ:
- Thế là các em đã vào lớp năm. Các em phải cố gắng học để thầy mẹ được vui lòng, và để thầy dạy chúng em được sung sướng. Các em đã nghe chưa? (Các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có tiếng dạ rang của phụ huynh đáp lại).
Ông đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu học trò lớp ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra. Và ngoài đường cũng có mấy người đứng dừng lại để nhìn vào. Trong những phút giây này chúng tôi được người ta ngắm nhìn nhiều hơn hết. Vì vậy đã lúng túng chúng tôi càng lúng túng hơn.
Ông đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói:
- Thôi, các em đứng đây sắp hàng để vào lớp học.
Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước. Nhưng người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ. Không giữ được chéo áo hay cáng tay của người thân, vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới hiên lớp. Các cậu lủng lẻo nhìn ra sân, nơi mà những người thân đang nhìn các cậu với cặp mắt lưu luyến. Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc tôi.
Ông đốc nhẫn nại chờ chúng tôi.
- Các em đừng khóc. Trưa này các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai các em lại được nghỉ cả ngày nữa.
Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi vào lớp năm. Một thầy trẻ tuổi, gương mặt hiền từ, đang đón chúng tôi vào cửa lớp. Trong thời thơ ấu tôi chưa bao giờ xa mẹ tôi như lần này. Tôi cũng lấy làm lạ vì có nhũng hôm đi chơi suốt cả ngày với chúng bạn ở đồng làng Lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào hết.
Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tôi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một người bạn tôi chưa hề biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin là có thật. Một con chim con liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao.
Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa bay trên bờ sông Viêm sống lại đầy dẫy trong trí tôi.
Nhưng những tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật. Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm bẩm đọc:
Bài tập viết: Tôi đi học!

Thứ Tư, 23 tháng 7, 2008

NGUYỄN TRỌNG TẠO SAY

Trong số bạn nhậu thì sợ nhất là uống với anh Tạo. Anh uống dai cực kì.Uống với anh chẳng biết khi nào được về. Bia uống ngất ngư rồi, thằng nào thằng nấy ngọng mồm rồi, tưởng giải tán được rồi, khi đó anh mới nói mình uống rượu ha, cứ thế gọi hết chai này sang chai khác.Chừng nào anh chưa nằm dài ra sàn, vén áo lên gãi gãi bụng, kêu hai tiếng ôi giời, chừng đó anh chưa say.Có hôm uống rượu nhà mình, chị Dạ gọi điện anh Tường nói răng 2,3 giờ sáng vẫn chưa về. Anh Tường nói về răng được mà về, ông Tạo chưa vén áo gãi bụng em ơi.Bình thường vẫn hoà nhã, nhẹ nhàng, rưọu ngà ngà anh hay nổi khùng, chửi một câu, ném tan một cái chén. Nhiều khi thấy chẳng có vấn đề gì anh cũng chửi, chỉ chửi đúng một tiếng ngu rồi ném tan cái chén.Hôm anh Tường khen bài Đất nước hình tia chớp của Trần Mạnh Hảo, chẳng biết anh Tạo có nghe không, anh chửi ngu rồi ném tan cái chén. Anh Tường nói ông ni hay, đất nước hình tia chớp thì ngu cái chi, rứa hình tròn thì mới không ngu à.Xưa sắm được bộ ấm chén cũng vất vả, anh chơi của nhà mình đến ba bốn bộ, vợ mình xót lắm, bèn sắm một cái chén gỗ. Khi nào anh say thì đẩy cái chén gỗ vào trước mặt anh. Anh chửi ngu rồi cầm cái chén gỗ ném cái cụp, cái chén gỗ bay lên, vợ mình nhặt lấy, lại dí trước mặt anh, anh lại chửi ngu lại cầm chén gỗ ném cái cụp. Suốt đêm cứ mỗi cái chén gỗ ấy mà ném.Nhờ vậy mà từ đó chén nhà mình an toàn. Vợ mình mừng rú nói cái chén gỗ mà cũng không nhận ra, he he he không biết ai ngu.Anh đi nhậu tối ngày, cái Thanh, vợ anh càu nhàu. Anh nói em không biết cái gì hết. Đi uống cực lắm chứ sung sướng gì đâu. Đó, để anh nấu cơm rửa bát giặt áo quần, đưa đón con cái, em đi uống một ngày xem có trợn mắt ra không. Người ta đã nhường cho phần nhẹ nhàng mà còn thắc mắc, ngu.Bây giờ anh sạch sẽ tươm tất, chứ ngày xưa anh lười tắm nổi tiếng, mọi người vẫn đùa là Tạo bẩn.Đi uống đến 3,4 giờ sáng, về ngủ đến trưa, có người gọi lại đi uống đến 3,4 giờ sáng, thời gian đâu mà tắm.Anh Quán thấy cái áo anh đã sẫm màu thời gian nói tắm đi cái mi. Anh nằm dài ra sàn nói để em nghĩ xem tắm có phải thuộc phàm trù văn hoá không đã.Ở văn phòng hội văn nghệ, anh chơi thân với cô Lan kế toán và nghệ sĩ Kim Quí, vợ đạo diễn Xuân Đàm. Một hôm hai cô này nói đố anh Tạo tắm đó, anh nói tôi tắm hai bà phải đãi tôi một bữa nhậu nghe chưa. Hai cô ok liền. Anh vào nhà tắm, một lúc sau đi ra, đầu tóc chải chuốt trợn tru, hai cô đành thua cuộc, đưa anh đi nhậu. Nhậu được nửa chừng, anh cười nói hai bà ngu, tôi chỉ mới gội đầu, ngu chi tắm.Một hôm vừa sáng bảnh mắt anh đã đến nhà mình, nằm dài ra sàn kêu chán. Mình hỏi sao. Anh nói mình đi nhậu suốt ngày, nghĩ thương vợ, tối qua ở nhà, quyết định rửa bộ đồ nghề hầu vợ phát thì nó lại hành kinh. Rửa ráy thế có phí không.Mình kể cho Kim Quí nghe. Chị dài môi nói ông Tạo mà rửa bộ đồ nghề trời sập. Tao mà yêu ông Tạo thì tao phải lấy đũa gắp chim ông chứ chẳng dám cầm.


sao. Anh nói mình đi nhậu suốt ngày, nghĩ tVì sao blog?

Thực sự hiện nay mình không có thời gian để đu đưa với đời, nhưng hồi này sao hay nhớ về quá vãng quá. Đã bỏ blog gần một năm bỗng nhiên quay lại, quyết tâm một ngày có một bài, một mảnh kí ức. Sau này khi không viết được nữa thì có bạn bè, con cái, học trò sẽ tập hợp lại, in thành một tập gọi là hồi kí vậy. Mình nhớ đâu viết đó, không cần làm văn, thậm chí ngữ pháp cũng không thèm chấp. Viết bất kì chuyện gì chợt nhớ, chợt thấy, chợt ngẫm ra, bất chấp sâu hay nông, thô hay tinh, tục hay thanh. Đọc một vài blog của một vài người nổi tiếng, thấy nói phét nhiều hơn nói thật, loanh quanh để đánh bóng mình, ghét. Mình nghĩ blog là cái để chống stress, tâm sự với đời để giải toả ẩn ức, thế thôi. Vậy việc gì phải nói phét?

VỚI TỐỐHỮU

Nhớ Tố HữuThằng Thiều cũng gặp Tố Hữu loáng thoáng như mình thôi mà viết bài về ông hay quá, không biết nó có bốc phét không mà sâu sắc cảm động thế không biết. Mình cú, định viết bài đấu lại nó, nhưng lại nghĩ xưa ông sống thì không viết, giờ ông chết rồi có viết kiểu gì người ta cũng cho mình nói phét, nên thôi. Nhưng sáng nay tự nhiên muốn viết về ông quá, định bụng 5,6 giờ chiều mới viết blog, nhưng mót viết chịu không nổi. Thế là víêt luôn.Mình có tính cục bộ, phàm ai là người Quảng Bình họăc yêu quí Quảng Bình mình đều quí mến cả. Thời chiến tranh Tố Hữu còn quá người Qúảng Bình, ăn dầm ở dề trong bom đạn với dân Đồng Hới, dân Bảo Ninh có khi cả năm trời. Tiếng là ngựa xe chứ chỉ xe U oat thôi, xe volga đường chiến tranh làm sao đi được. Thứ xe U oat bây giờ có đem cho tụi trẻ chúng nó còn mắng cho. Còn yến tiệc thì nói cho sang, thực ra mấy miếng thịt lợn, bò kho kho xào xào, trẻ con nhà mình dỗ mãi chúng nó mới chịu ăn. Vì thế dù ai nói đông nói tây mình vẫn qúi Tố Hữu như thường. Thời chiến tranh dượng mình ( Cổ Kim Thành) làm chủ tịch tỉnh, một hôm đến nhà dượng chơi thấy một người đang ngồi với dượng nói chuyện gì đó rất hăng. Cả nhà đi lại cứ nem nép. Mình hỏi thằng Vượng ai đó. Nó bảo Tố Hữu. Mình lạnh người, đứng lặng ngắt. Quá vinh hạnh thấy được Tố Hữu bằng xương bằng thịt. Mình đứng nép trong buồng nhìn ra, ngắm ông say sưa cho đến khi ông đi rồi vẫn đứng lặng ngắt. Mình về Ba Đồn khoe gặp Tố Hữu với tụi bạn, bóc phét nói Tố Hữu ôm mình, cho ngồi trên đùi dặn này nọ, tụi bạn ngưỡng mộ mình lắm. Thực ra có gặp cóc khô đâu, chỉ nhìn trộm ông thôi, hi hi. Gần ba chục năm sau về làm báo Văn Nghệ mình mới thực sự gặp ông. Báo Văn nghệ có tục cứ đến 28, 29 tết là tổ chức ăn tết toàn cơ quan. Vị khách số 1 không bao giờ vắng là Tố Hữu, vì ông là sư tổ của báo. Chương trình có 3 phần, năm nào cũng giống năm nào, đầu tiên là nhậu nhẹt, sau đó nghe Tố Hữu nói chuyện, cuối cùng là chơi trò đố vui có thưởng. Hồi đó Tố Hữu đã rời chính trường, nghe nói phụ trách ban chiến lược quốc gia gì đó nhưng thực ra là ngồi chơi xơi nước thôi. Năm đầu tiên mình thấy lạ là hễ Tố Hữu ngồi mâm nào, mấy ông anh trong báo kính cẩn khúm núm nhưng mắt trước mắt sau chuồn đi cả. Hữu Thỉnh chỉ ngồi với ông có 5 phút rồi nhảy đi mâm nọ mâm kia chúc mừng anh em, kì thực là để tránh nói chuyện với ông. Nhìn đi nhìn lại không thấy ai, ông đi đến mâm mình, khi đó cũng chỉ mình và vài người. Mấy người này kính cẩn “dạ anh” rồi cũng lẹ làng biến đi, chỉ còn mình trơ khấc. Ông không hỏi mình tên gì mà hỏi mình quê đâu. Mình nói thưa chú cháu quê Quảng Bình. Mắt ông sáng lên và ông bắt đầu nói. Ông nói nhỏ, đều đêu, hết đông sang tây, hết chuyện Quảng Bình sang chuyện thế sự. Ông nói chuyện thế sự hệt mấy ông hưu trí phường nói chuyện thế sự, đại khái ngày xưa thế này thế kia, bây giờ mấy ông trên kia... ông chỉ ngón tay chỉ chỉ về phía Bắc, lăc đầu, rồi dừng lời. Lúc đầu mình nghe rất hào hứng, dù gì cũng được Tố Hữu cho nói chuyện, nhưng sau ông nói dài quá, lặp nhiều quá, đâm nản. Quanh đi quẩn lại cũng ngày xưa thế này thế kia, bây giờ mấy ông trên kia...Bảo Ninh thấy mình chịu trận, đứng nép ở cửa cười thích chí, dẩu mồm nói thầm: cho mày chết! Cho mày chết! Tức khí mình nhảy ra kéo Bảo Ninh vào, nói: dạ thưa chú đây cũng là nhà văn người Quảng Bình, con bác Hoàng Tuệ. Tố Hữu bắt tay: à, Hoàng Tuệ à! Mình tót lẹ ra cửa đứng nép nhìn Bảo Ninh chịu trận, cười khoái trá. Bảo Ninh khúm núm nghe, à dạ vâng rồi tranh thủ ông không để ý, ngoảnh về phía mình chửi thầm: “ địt mẹ mày” rồi vội vàng ngoảnh lại à dạ vâng bất kể Tố Hữu đang nói gì, có khi ông chưa nói xong câu nó đã à dạ vâng rồi lại ngoảnh về phía mình chửi thầm địt mẹ mày! Nó càng chửi mình càng sướng he he. Mãi sau, nó vừa à dạ vâng vừa chắp tay giấu dưới gầm bàn lạy mình như tế sao, xin mình cứu cho.Cuối cùng mình cũng đi vào nói thưa chú anh Hữu Thỉnh đang đợi chú rồi dìu ông vào phòng Hữu Thỉnh. Hửu Thỉnh đang ngồi đọc cái gì đó, vò đầu bứt tai ( cái anh này lúc đéo nào cũng đọc được, rảnh phút nào là nhảy vào phòng đọc bài ngay), thấy Tố Hữu vào anh vụt đứng dậy reo to: A, anh! Tiếng reo mừng hồ hởi phấn khởi như thấy bố anh từ vạn kiếp trở về. Ôi thiên tài Hữu Thỉnh. Năm sau vẫn vậy, đầu tiên là nhậu nhẹt, sau đó Tố Hữu nói chuỷện, cuối cùng là đố vui có thưởng. Món đố vui có thưởng anh em rất thích, ai cũng muốn mình kiếm được giải thưởng tranh Thành Chương về treo. Nhưng Tố Hữu nói dài quá. Mặc dù Hữu Thỉnh đã nhắc khéo: Anh Tố Hữu đang rất rất bận, anh chỉ nói chuyện với anh em có 10 phút thôi. Nhưng Tố Hữu đâu có thèm chấp, ông chơi cả 100 phút không dừng. Anh em nói chuyện ồn ào như vỡ chợ ông vẫn cứ nói. Trương Vĩnh Tuấn đi vào đi ra mặt nhăn như bị, đã gần 10 h rồi mà còn một tiết mục nữa. Bỗng có ai đó tắt phụt micro, tưởng ông dừng hoá ra ông vẫn không thèm chấp, vẫn cứ nói. Cho đến khi ai đó cúp cầu dao điện, cả toà soạn tối om, ông mời dừng. Hữu Thỉnh đưa ông xuống cầu thang, mình lúc cúc chạy theo sau. Hữu Thỉnh nói tiếc quá anh nói đang hay lại mất điện. Tố Hữu không nói gì, chắc ông cũng biết, vì cả khu Trần Quốc Toản điện đóm vẫn sáng trưng. Thực lòng khi đó mình rất thương ông. Vẫn biết mình đến tuổi như ông thì còn lẩn gấp 10 ông nữa nhưng vẫn thương ông quá. Giá ông đừng làm quan, chỉ làm thơ thì hay biết bao nhiêu


Văn Cao say.

Mình không thân Văn Cao, chơi với anh vừa đủ để cho ạnh nhớ tên.Lần thứ nhất đến với anh Tường, lần thứ hai đến với anh Tạo anh Kha,những lần sau đến thăm anh thì ít công chuyện thì nhiều.Lân nào đến cũng thấy anh ngồi cầm ly rượu ngang miệng như sắpuống, sắp nói. Nhưng anh không uống, không nói, chỉ ngồi yên.Cái tay cầm ly rượu run run, ly rượu lúc nào như ở tình trạng sắp rớt.Một giọt rượu đọng trên râu, y như giọt sương trên lá, luôn luôn là một giọt ấy thôi, lạ lắm.Hỏi gì, câu khó hay dễ, gấp hay không, anh cứ để chén rượu ngang miệng hồi lâu, nhấp một ngụm nói một câu, chỉ một câu ấy thôi không thêm câu thứ hai.Trông cung cách cầm ly rươụ của anh thấy rượu bỗng sang hẳn, quí hẳn. Trong đời thấy có hai người cầm ly rượu sang như vậy đó là anh và Bảo Ninh, không thấy có người thứ 3.Mình nói với anh Đỉnh nhìn anh Văn Cao uống rượu cứ nhớ Lý Bạch. Anh Đỉnh nói mày quen Lý Bạch à, sao bảo giống. Mình cười phì nhưng cứ vẩn vơ sao giống kinh.Hoá ra suýt nữa anh giống Lý Bạch.Anh về Huế chơi, anh em đưa anh đi phá Tam Giang. Ngồi thuyền trên phá uống rượu, ngắm trăng, nhậu những con tôm nướng vừa câu được, anh Văn Cao thích lắm.Mỗi lần anh thích gì biết ngay, mắt anh sáng rực long lanh như người ta đang yêu vậy.Anh Tường được Văn Cao như được tình nhân, nói lia xia, đông tây kim cổ nói hết không cho ai nói. Anh Văn công chỉ ừ ừ, nhấp một ngụm lại ừ.Chị Băng ngồi bên canh chừng anh thỉnh thoảng lại hắt ra một câu uống vừa thôi. Anh lườm chị một cái, nhấp một ngụm lại ừ.Lúc đầu anh còn đế thêm được đôi câu, sau say quá, chỉ ừ không thôi, vai thấp dần xuống, cái ừ cứ hụt hơi dần.Anh Tường không để ý cứ nói, càng nói càng bốc.Chị Băng lại nói uống vừa thôi, anh lại lườm chị, lại uống, lại ừ.Trong khi mình coi anh như thánh thì chị Băng coi anh như thằng con nít, như con chị vậy, lườm lườm nói nói rất sỗ sàngAnh Tường vẫn cứ nói, đến đoạn thơ Lý Bạch, trúng tủ anh, anh nói lia xia.Anh Văn Cao cứ ừ, mỗi lần ừ vai thấp xuống một ít, cái ly rượu trong tay run run đưa đi đưa lại trước miệng anh, anh uống mãi mới được một ngụm.Chị Băng hét lên thôi không uống nữa, anh lườm chị, uống một ngụm lại ừ, coi như chưa nghe chị nói gì.Anh Tường đọc thơ Lý Bạch say sưa.Chị Băng không thôi lườm anh Văn Cao, lại nói uống ít thôi, mặc kệ anh Tường đọc thơ.Anh Văn Cao nuốt ngụm rượu như nuốt hận, ráng sức nói ừ ừ.Chị Băng giật ly rượu trong tay anh hét lên thôi không uống nữa.Vẫn biết chị thương anh thì mới thế, không có chị anh khó sống đến bây giờ, nhưng khi ấy mình tức lắm, giá em út gì cho ngay một tát.Anh Văn cao bị giật ly rượu, ngồi đơ, miệng lẩm bẩm tao chết, tao chết đây. Thình lình anh đổ người ra khỏi thuyền nhào xuống phá. May chụp kịp, hú vía. Phá có chỗ sâu hơn 1 con sào.Sau vụ đó anh ốm, vào viện Trung ương Huế.Chưa thấy khi nào bệnh viên hân hoan khi thấy bệnh nhân vào như trường hợp anh Văn Cao. Họ lo cho anh còn hơn lo cho cha mẹ đẻ.Chị Băng thì đứng ngồi không yên, hết giục người này gọi người kia, rối rít ép anh uống sữa. Anh không uống, cương quyết không uống. Chị Băng phát cuồng, mếu máo đẩy mình vào nói các em làm sao để anh uống chút sữa không anh chết mất.Mình vào, anh kéo áo mình nói rượu sữa... rượu sữa.. Mình thông minh hiểu ý ngay, vọt ra viện mua xị rượu, dấu lưng quần, vào nói chị để em pha sữa cho anh. Mình pha sữa, đổ rượu vào khuấy đều đưa anh uống, anh uống sạch, chị Băng mừng rơn.Từ đó mỗi lần chị Băng pha sữa anh đều gạt đi nói để thằng Lập vào pha, mẹ mày không biết pha đâu, he he.Anh ra viện nhanh chóng, mọi người khen bệnh viện phục vụ tận tình, chị Băng lo cho anh hết sức chu đáo, anh gật đầu xác nhận rồi kéo tay mình, ghé tai nói thầm: Cứt. Nhờ rượu mày đấy.He he.Người từng gặp 2Chuyện chẳng liên quan gì đến cụ, nay nghe tin cụ mất bỗng nhớ đến, lòng chợt buồn hiu hiu.Nói cho oách thì mình đã gặp cụ ba lần.Trước đó chỉ nghe anh Thanh Quế kể chuyện đã cùng tòng quân, cùng vào Nam, cùng ở một đơn vị với con trai cụ mà thôi. Nghe anh kể phục cả cha lẫn con. Cha phục đã đành, con trai cụ thì phục quá, hiếm ai cố nhoài ra khỏi cái bóng của cha mình, cố làm một người lính bình thường cho đến lúc hy sinh.



Lần thứ nhất “gặp” cụ khi cụ vào thăm Quảng Trị, hình như cuối năm 1989. Khi đó mới chia tỉnh, trụ sở uỷ ban tỉnh chỉ là dãy nhà ngói cấp 4. Cụ ngồi với anh Bường chủ tịch tỉnh, đám cán bộ lau nhau như mình ngồi tít ở đằng xa.Anh Bường vui vẻ nói: Tỉnh mới lập, chưa làm được gì. Mong thủ tướng quan tâm cho ít kinh phí làm cái trụ sở uỷ ban, để khi thủ tướng về, được đón thủ tướng cho đàng hoàng, chứ không phải ngồi trong cái nhà như thế này.Cụ cười to nói: Nhưng tôi thích ngồi trong nhà thế này thì sao?Mọi người cười ồ vui vẻ.Mình chỉ nghe cụ nói mỗi câu đó, không nghe câu nào khác hơn, nhưng nhớ mãi.Lân thứ 2 khi ra Hà Nội, thằng N. nói: Tao đi phỏng vấn cụ Kiệt, mày có đi theo không. Tất nhiên là mình đi rồi, bản tính tò mò mà.Thằng N. thì ghê lắm, nó quen hết lượt các ông to, tích trữ một xấp ảnh dày, về quê xoè ra khoe, bà con làng xóm lác mắt.Cụ nghỉ chơi tennis, tiếp thằng N. ngay chỗ giải khát sân tennis. Thằng N, giới thiệu mình với cụ: thằng bạn cháu, thế thôi. Rồi mình ngồi chầu rìa nghe nó phóng vấn cụ.Bụng nghĩ cụ cũng dễ tính thật, nó hỏi toàn câu củ chuối mà cụ vẫn vui vẻ trả lời. Thỉnh thoảng lại cười rất sáng khoái. Thế mới lạ.Lần thứ 3 thì phải kể dài dòng hơn.Năm 1996 mình ra Hà Nội, ra một mình mua nhà trước rồi đem vợ con ra sau. Mua xong nhà, phải sửa tí chút, đêm nằm một mình buồn buồn, hai giờ sáng vùng dậy viết đến sáng xong truyện ngắn Chuyện không có trong sự thật.Viết xong ném đấy, bụng nghĩ chẳng ai thèm đăng đâu. Chẳng ngờ anh Đỉnh đến chơi, đọc, khen hay nói: để tao đem về đăng Văn nghệ quân đội.Truyện đăng số tháng 7/ 1996 ( hay 97 gì đấy). Đến Văn nghệ quân đội, ai cũng khen, có người còn nói: thế giới cũng đến thế thôi.Một tháng sau bỗng ồn ào nhặng cả lên, người bảo sĩ nhục con người, ngườì bảo sĩ nhục ngành giáo dục, người bảo nói xấu cụ Kiệt.Anh Huân, anh Đỉnh lo bạc mặtMình ngơ ra, mấy cái thứ sĩ nhục này nọ thì mình đã quen lối phê bình suy diễn ngu xuẩn không nói làm gì. Nhưng nói xấu cụ Kiệt thì lạ quá. Chuyện mình có liên quan gì đến cụ đâu?Hoá ra nghe nói trong truyện mình có con chó tên Ki mà nhà cụ cũng có con chó tên như thế.Khổ. Nào có biết chó mèo nhà cụ ngang dọc ra sao.Nhiều người rỉ tai nói cụ Kiệt đọc rồi, tức lắm. Cụ gọi điện cho cụ Phiêu, cụ Phiêu gọi điện cho tổng cục làm cho ra lẽ.Chẳng có ai hỏi mình một câu, chỉ nghe ồn thế thôi. Mình chẳng sợ, trên răng dưới ca tút sợ gì, chỉ thương anh Huân, anh Đỉnh vì chuyện của mình vất vả tất tả ngược xuôi.Chuyện rồi cũng qua, anh Huân anh Đỉnh bị treo sao vài năm rồi cũng đâu vào đấy.Mình chỉ biết qua vụ này ở Văn nghệ quân đội thời đó, trừ anh Huân anh Đỉnh không nói làm gì, chỉ có thằng Khoa là trước sau như một, còn lại là một bọn tiểu nhân, tiền hậu bất nhất.Hai năm sau vào quán cà phê phố gì gần phố hàng Bông không nhớ nữa. Anh Q. gặp mình nói mày vào đây anh bảo. Mình theo anh vào phòng trong bỗng sững sờ gặp cụ.Anh Q. nói thằng em họ em đó anh. Nó viết cái truyện Chuyện không có trong sự thật không phải nó xâú anh đâu. Em muốn gọi nó vào để nó nói cho anh hỉểu, thông cảm cho nó.Cụ ngơ ra: chuyện gì? Mình có nghe bao giờ đâu? Anh Q. nói thế không ai nói với anh cả à. Cụ nói không.Hu hu.



Thế mới biết miệng lưỡi thế gian, giết người không dao là thế nào.Người từng gặp 3 Những năm 1965- 1975 nhà mình sơ tán ở làng Đông Dương, cách Thị Trấn Ba Đồn có chục cây. Một cái làng rất hay, y như một mảnh đất Nam Bộ rơi xuống vậy, có hoa mai vàng, có rặng trâm bầu sau làng, còn tôm cá thì ê hề, vẫn có câu: Cơm Tô Xá, cá Đông Dương.Chuyện làng Đông Dương thì nhỉều lắm, sau này từ từ sẽ kể.Bây giờ kể chuyện anh Đ. thôi, vì anh này hay nhất trong kí ức của mình về cái làng này.Anh Đ. lùn, đen, xấu. Anh Diệu nói cái mặt thằng Đ. chành bành giống cái l. trâu.Anh Đ. sống với mẹ già, sau mẹ chết anh ở một mình. Nhà nghèo quá, 24, 25 tuổi rồi hỏi cô nào cũng bị chê.Anh con liệt sĩ, lại con một, khỏi đi bộ đội. Con trai trong làng ai lớn đều đi bộ đội hết, còn lại dăm ba anh tuổi như anh thôi, chỉ có anh là chưa vợ.Mẹ anh khóc lên khóc xuống , anh vẫn chẳng quan tâm đến chuyện vợ con. Cho đến khi mẹ anh chết anh vẫn độc thân.Mình hỏi anh sao anh không lấy vợ. Anh nói tao để vậy để đàn bà nó thèm.Anh nơm cá cực tài, cầm nơm úp nhoay nhoáy, hễ dừng lại mò là y như có một con cá to. Nghe tiếng đóng thành nơm, anh biết chắc cá nhỏ hay to, ngon hay dở để dừng lại bắt hay không. Chẳng bù cho mình, úp úp mò mò, tóm lại chỉ vài con cá diếc, cá rô.Một lần úp nơm, bao giờ xâu cá của anh cũng dài nhất, đầy những con cá ngon, đắt tiền.Mình dân Thị Trấn lên, thấy thế thì thích lắm, bám theo anh suốt ngày.Anh chỉ làm hai việc: đi đập lúa thuê và nơm cá bán lấy tiền.Cứ mùa lúa là anh đi đập lúa cho các gia đình có chồng con đi bộ đội, một đêm đập lúa được trả vài lon gạo. Thế cũng đủ sống, lại được tiếng giúp đỡ gia đình bộ đội.Anh không đoàn đội. Hồi này ai không đoàn đội bị coi như thanh niên chậm tiến, con gái vì thế bụng thì chê nghèo nhưng miệng lại có cớ chê anh chậm tiến.Hồi này ai bị chê chậm tiến thì sốt ruột lắm, phấn đấu như điên, anh tỉnh bơ, không quan tâm.Hội họp cuộc nào anh cũng đến nhưng chỉ đứng sau nghe. Thanh niên làng tranh nhau lên nói toàn từ sáo rỗng- lý tưởng, hoài bão, tiên tiến, thi đua, quyết tâm, căm thù, phấn đấu.v.v.. Anh cười hậc, é he một tiếng to rồi phủi đít quần ra về.Hôm sau họp anh lại đến, lại đứng sau, lại nghe lý tưởng, hoài bão, tiên tiến, thi đua, quyết tâm, căm thù, phấn đấu.v.v.. Anh lại cười hậc, é he một tiếng, phủi đít quần ra về.Luôn luôn như thế.Anh Cư gặp mình nói Lập ngoan, học giỏi, cháu ngoan Bác Hồ, đừng quan hệ với thanh niên chậm tiến.Mình dạ dạ nhưng vẫn chơi với anh Đ. như thường.Đêm nào cũng vậy, con trai lớn chút trong làng đều đi đặt túm bẫy lươn, câu cá cặm. Đặt đầu hôm, bá bốn giờ sáng thì đi thăm.Một đêm mình đi thăm túm lươn, hôm đó được nhiều, hơn chục con, mừng lắm hí hửng xách oi về thì gặp anh Đ. đi từ nhà chị Th. ra. Mình hỏi anh đi đâu, anh nói không.Minh thấy anh mặc cái áo bộ đội dài gần đến gối ( anh lùn mà). Nghi nghi, mình kéo vạt áo anh lên, chim cò phơi ra cả, hoá ra anh không mặc quần. Mình ngạc nhiên nói sao vào nhà người ta lại không mặc quần, anh cười phì một tiếng rồi bỏ đi.Nhà chị Th. một mẹ một con, chồng đi bộ đội, thằng cu con chị mới hơn 4 tuổi. Mình nghi lắm.Mình lẻn theo anh Đ.Anh Đ. lại vào nhà chị H. Chị H. có chồng hy sinh, vừa báo tử năm ngoái. Chị vẫn say sưa sinh hoạt đoàn, biến đau thương thành hành động cách mạng, hăng hái phát biểu lý tưởng, hoài bão, tiên tiến, thi đua, quyết tâm, căm thù, phấn đấu.v.v. Bà con làng xóm khen lắm, vẫn nói với con gái con dâu: đó, sang nhà con H. mà coi.Mình vào sau hồi nhà chị H. Tối quá không thấy gì, chỉ nghe chị kêu hệt như mèo kêu.Mình chặn anh Đ. ở cổng nhà chị H. nói em biết rồi nha. Anh Đ. túm cổ áo mình nói mày nói tao giết.Về sau, lần nào đi nơm anh vừa nơm suất của anh, vừa nơm suất của mình. Mạ mình toàn khen thằng Lập dạo này nơm cá giỏi. Hi hi.Làng Đông Dương có chừng 4-5 trăm nóc nhà, hơn 1 trăm nóc là nhà hoặc là vợ bộ đội hoặc là vợ liệt sĩ. Không biết anh Đ. chui vào bao nhiêu nhà trong số 100 nóc nhà ấy, chỉ biết suốt cuộc chiến tranh 1965-1975, tối nào cứ đến 3-4 giờ sáng anh Đ. lại mặc cái áo bộ đội dài đến đầu gối, không thèm mặc quần, đi hết nhà này đến nhà kia, 5 giờ sáng thì về.Mình hỏi sao anh không mặc quần. Anh nói mặc mần chi, cởi vô cởi ra mệt.Hoà bình, anh Đ. hơn ba chục tuôỉ vẫn chưa vợ.Một hôm làng tổ chức tuyên dương các mẹ các chị là vợ con bộ đội chung thuỷ đảm đang. Các mẹ các chị sắp hàng dài nhận phần thưởng, nhận giấy khen, mặt ai nấy hớn hở.Anh Đ. cũng đến, đứng sau cùng, nghe chị H. đại diện phát biểu lý tưởng, hoài bão, tiên tiến, thi đua, quyết tâm, căm thù, phấn đấu.v.v Anh Đ. cười hậc, é he một tiếng to rồi phủi đít quần ra về(theo blog Nguyễn Quang Lập)


TẢN VĂN NGUYỄN QUANG LẬP
Thứ sáu, ngày 04 tháng

Thứ Năm, 17 tháng 7, 2008

ẢNH CON GÁI


CHÙM ẢNH CON GÁI HÀ NGUYÊN


















làm dáng hả?
đại ca

Lười
học bài đó!



































Học làm thiếu nữ!




















cười ló mười cái răng










Sờ chuột



























Điệu quá đi!



























Yes!



























Nghịch!


























Cá đâu rồi?





















Ai thế nhỉ?


































































Hà Nguyên, sinh nhật lần thứ 3

Thứ Tư, 16 tháng 7, 2008

thời sự-suy nghĩ

Địa ngục quá gần ta


Chuyện em gái Nguyễn Thị Bình bị hành hạ tra tấn và bắt làm việc như một nô lệ thời hiện đại trong suốt 13 năm trời đã xảy ra ngay tại một quận nội thành của Hà Nội - quận Thanh Xuân, và có lẽ đã diễn ra trước mắt không ít người. Có thể là hàng xóm, có thể là người có quan hệ làm ăn buôn bán với vợ chồng hàng phở này, trong suốt 13 năm có một đứa bé gái bị đánh đập tàn nhẫn hằng ngày ngay trước mắt họ, nhưng không ai dám nói gì, có hành động gì ngăn chặn sự dã man khó tưởng tượng ấy.
Cho tới khi có một, rồi hai người: bà Bình "bò" và chị Oanh, không chịu nổi khi phải nhìn cảnh "địa ngục trần gian" ngay trước mắt mình cứ thản nhiên tái diễn, đã đồng lòng cứu và bí mật đưa em Bình bỏ trốn. Tới khi đó, báo chí phát hiện và vào cuộc, còn mọi người thì thở phào ra:"Khủng khiếp quá!". Vâng, nhưng khủng khiếp nhất là khi một chuyện khủng khiếp như thế lại xảy ra như một chuyện "đời thường" suốt 13 năm trời ngay giữa thủ đô mà gần như không có ai thấy đó là chuyện khủng khiếp.
Chúng ta đang sống thời hiện đại, đang sống trong cơ chế thị trường với vô vàn quan hệ phức hợp và phức tạp, đúng thế, nhưng liệu cuộc sống bây giờ có khiến chúng ta chai mòn vô cảm trước nỗi đau của trẻ nhỏ, nỗi đau của người nghèo khổ đến thế không? Ở một xã hội thượng tôn pháp luật, những hành động lăng nhục đánh đập con người một cách dã man như vậy sẽ lập tức bị chính những người láng giềng, hàng xóm phát hiện, và họ sẽ lập tức báo tin cho cảnh sát. Nhưng ở ta, khi người ta "sợ" pháp luật thì ít mà sợ những kẻ vi phạm pháp luật thì nhiều hơn, và nhất là khi nếu có người dám đứng ra tố cáo những tội ác như của vợ chồng hàng phở nọ, thì sẽ có cơ quan cảnh sát đặc biệt nào đứng ra tiếp nhận và xử lý ngay những thông tin ấy? Đó mới là điều cần bàn. Vì một khi người dân không dám báo cáo những chuyện như thế với công an khu vực, với công an phường chẳng hạn, là do họ sợ "nhà hàng phở" kia vừa lắm tiền vừa ngoa ngoắt có thể sẽ "đổi trắng thay đen" và "tố ngược" gây tai họa cho họ, thì sao? Ai bảo vệ những người dân trung thực dám tố cáo cái xấu cái ác trong những hoàn cảnh như thế ? Khi địa ngục quá gần ta, ma vương tiểu quỷ cũng quá gần ta, mà sự che chở của pháp luật lại ở hơi xa hoặc còn mờ ảo, khi những người lương thiện và trung thực chưa thể liên kết thành một sức mạnh, thì chuyện em Bình bị hành hạ man rợ suốt 13 năm trời mới nghe thật khủng khiếp, nhưng nghĩ kỹ, lại là chuyện hoàn toàn có thể xảy ra. Dù trong mỗi khu phố đều có "tổ dân phố" về hình thức là quản lý khá chặt chẽ, nhưng một khi những tổ chức chính quyền cơ sở như thế bị "quan liêu hóa" hay chỉ tồn tại trên hình thức, thì thật khó cho người dân lương thiện dựa vào đó để thể hiện có hiệu quả sự lương thiện, thái độ không chấp nhận cái xấu cái ác của mình.
Tôi còn nhớ, cách đây chưa lâu, ngay tại thị xã Quảng Ngãi của tôi cũng đã có trường hợp một người em cựu chiến binh bị bệnh tâm thần đã "được" gia đình người anh ruột "nhốt xà lim" theo đúng nghĩa đen trong suốt 10 năm. Điều lạ lùng là cả chính quyền, tổ chức cựu chiến binh hay đoàn thể mặt trận phường, khu phố tại địa phương đều không hay biết(?). Cho tới khi báo chí phát hiện ra. Nên tôi nghĩ, trường hợp em Nguyễn Thị Bình chính là hồi chuông cảnh báo không chỉ là sự vô cảm đang cư ngụ trong mỗi người chúng ta, mà còn cảnh báo về sự thiếu vắng tinh thần thượng tôn pháp luật trong cộng đồng, về sự bất lực do bị "quan liêu hóa", "xơ cứng hóa" của những tổ chức chính quyền và cơ quan bảo vệ pháp luật ở cơ sở. Khi người dân lãnh cảm trước cái xấu cái ác, khi sự bất công và bạo ngược dám hành xử một cách công khai, đây đó còn thách thức cả pháp luật, thì khi đó "địa ngục chỉ cách ta ba bước".


Tháng 11/2007, Thanh Thảo

tản mạn

Xông đất - nét đẹp văn hóa ngày
xuân
tản mạn

Hàng năm, khi ngoài Bắc hoa đào bắt đầu đỏ thắm và phương Nam hoa mai vàng xòe cánh rực rỡ thì tất cả mọi người từ thượng lưu quý tộc cho đến hạng nghèo hèn đều tạm thời gác lại chuyện gạo-tiền-cơm- áo đểû lo cho ba ngày tết. Tết là dịp mọi người nghỉ ngơi, vui chơi, làm lễ tạ ơn tổ tiên, trời đất đã cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Gột bỏ những điều rủi ro trong năm cũ, cầu mong và đón nhận vạn sự tốt lành của năm mới. Người dân quê tôi quan niệm vào thời điểm trời đất giao hòa-lúc bắt đầu chuyển từ năm cũ sang năm mới nếu có hiện tượng gì xảy ra với mình thì cái đó nó sẽ ứng vận vào mình suốt cả năm. Vì vậy trong đêm trừ tịch càng gần đến thời khắc giao thừa mọi hoạt động , ăn nói cả trong suy nghĩ cũng được mọi người hết sức thận trọng, kẻo sơ suất điều gì thì sẽ gặp xui xẻo cả năm. Cũng vì thế người ta rất quan tâm đến những vị khách đầu tiên đến nhà mình, những người đến xông đất đầu năm. Người đó có thể sẽ mang đến sự may mắn hay rủi ro trong năm. Tôi nhớ ngày còn bé, từ đầu tháng Chạp ta là lũ trẻ con chúng tôi bắt đầu rạo rực chờ tết. Đến ngày 23 tháng Chạp sau khi tiễn Ông Táo về trời để báo cáo tình hình đời sống dân tình hạ giới trong năm là không khí chuẩn bị tếùt bắt đầu khắp đường làng ngõ xóm. Mẹ tôi lăng xăng lo làm bánh trái, hùn hạp thịt heo với bà con lối xóm... cha tôi cẩn thận vén lại gốc mấy khóm hoa vạn thọ, hoa cúc và bắt đầu phấp phỏng không biết năm nay ông tôiù đến nhà có sớm không. Ông tôi tuổi cao và đẹp lão như ông Thọ trong bức tranh Phước-Lộc-Thọ mà cha tôi mới mua treo trong nhà còn thơm mùi mực tàu. Thường ngay sau giao thừa là ông lần lượt đến từng nhà con cháu. Không chỉ có nhà tôi mà hầu như cả làng ai cũng mong ngày đầu năm được ông tôi đến nhà để năm mới được sức khỏe và may mắn. Mặc dù phải thức khuya để đón giao thừa nhưng anh em chúng tôi không đứa nào chịu đi ngủ, cùng háo hức chờ tiếng gậy lộc cộc của ông tôi để được nũng nịu sà vào lòng vuốt chòm râu bạc và nhận những chiếc phong bao xinh xinh với cái xoa đầu âu yếm và lời chúc mau lớn, học giỏi. Bây giờ chúng tôi đã lớn lập gia đình và đi làm xa nhà nhưng hàng năm vẵn về quê ăn tết . Ông tôi tuổi càng cao không còn khỏe để mang niềm vui đến cho con cháu trong ngày đầu năm nhưng tôi vẫn không quên tiếng gậy của ông gõ lộc cộc trên nền sân gạch sau phút giao thừa... Người Việt Nam ta thường có tục lệ sau giao thừa là mở cửa chọn hướng xuất hành. Tùy theo tuổi tác mà chọn đi các hướng Đông-Tây-Nam hay Bắc (ấy là nói ở vùng nông thôn đường sá rộng rãi chứ không như ở phố chật chội khó thực hiện hướng xuất hành). Có người kỹ tính còn phải chọn bước chân phải hay chân trái trước, tiếp đến là hái lộc đầu năm và xông đất. Người ta quan niệm xông đất là để đón nhận may mắn. Thường những người đến xông đất phải là ngẫu nhiên không được gia chủ dạm trước thì mới linh. Người ta muốn người đến xông đất nhà mình là người mau mắn, hợp tuổi với gia chủ , thành đạt về công danh hay trong làm ăn đêû mang tài lộc đến. Và phải là người vai vế ở trên, hoặc là vai vế xã hội, hoặc làtuổi tác, cùng lắm là đi ngang, tức là ngang hàng về tuổi tác hay vai vế chứ không có chuyện người vai vế thấp đến xông đất nhà kẻ trên. Ở quê tôi người đến xông đất còn phải mang đến tài, lộc để mừng Tân niên cho gia chủ, cầu chúc cho gia chủ trong năm mới gặp nhiều may mắn, thường mang theo một chút tiền nhỏ đêû mừng tuổi trẻ con, chí ít cũng là những lời chúc tốt đẹp. Những người gia cảnh khó khăn, đạo đức không tốt hay gia đình đang có chuyện buồn thì phải kiêng cữ trong những ngày tết, đặc biệt là không nên đi xông đất nhà người ta. Ngày nay đời sống xã hội càng phát triển thì cách thức xông đất đầu năm cũng "hiện đại" hơn. Ở vùng nông thôn người ta vẫn còn giữ tục đến thăm nhau trong ngày đầu năm nhưng thường là gia chủ dạm nhờ trước người đếùn xông đâùt nhà mình. Còn ở thị thành người ta có thể nhất điện thoại đến địa chỉ nào đó để chúc phúc đầu năm cũng được xem như xông đất. Tục xông đất đầu năm là một quan niệm hay, một nét đẹp văn hóa trong ngày đầu xuân nhưng nó cũng có nhiều phiền phức. Nếu gia đình nào đó trong năm gặp rủi ro thì đổ lỗi cho người xông đất, hoặc người đến xông đất năm đó gặp nhiều may mắn thì bị xem là lấy hết lộc của gia chủ, có không ít trường hợp xảy ra xích mích, mất tình nghĩa vì điều này. Vì vậy mà ngày nay người ta rất ngại khi được nhờ đến xông đất đầu năm. Thậm chí trong ngày Mồng Một tết người ta đến thăm nhau cũng rất trễ để ...mình không phải là người đến trước. Xông đất đầu năm là một nét văn hóa truyền thống của cư dân vùng nông nghiệp, nó thể hiện cái triết lý cộng đồng của dân tộc Việt Nam, mọi người sống quan tâm đến nhau, sống vì nhau, ngoài ra nó còn có ý nghĩa tâm linh, mọi người muốn mang đến cho nhau sự may mắn trong ngày đầu năm mới. Sau thời khắc giao thừa, bàn thờ gia tiên được trưng bày rực rỡ, hoa vạn thọ, hoa lay-ơn khoe sắc trên chiếc độc bình cổ, mâm ngũ quả đủ màu sắc, cỗ bánh bò, bánh thuẫn chất ngất bên cạnh cùng trang điêûm cho gian thờ sáng hẳn lên. Gia chủ mở rộng cánh của để đón năm mới. Trong mùi hương trầm thoang thoảng ấm cúng, người đến xông đất cùng gia chủ rót tách trà ngon, mời nhau chiếc bánh ngọt để giới thiêïu tài gia chánh của cô con gái, uống một ly rượu gạo để tận hưởng phong vị tết cổ truyền, rồi cùng hàn huyên chuyện làm ăn và cầu chúc những điều tốt đẹp cho một năm mới. Trí Thanh

Thứ Năm, 10 tháng 7, 2008

Thơ

EM,

em,
của khát khao,
cuồng nhiệt
của run rẩy,
muộn phiền
nơi tình yêu đi qua
em,
của tình yêu
thác chảy
cuồn cuộn
đê mê
bùng cháy,
trái cấm một lần rơi vỡ
trên tay gã ăn mày.
em,
đường chiều bóng đổ
gác trọ buồn hiu,
phố nhỏ lên đèn.

Tháng 7/1997-Trí Thanh

Thứ Tư, 9 tháng 7, 2008

thơ tình...tang





CHUYỆN TÌNH LÁ DIÊU BÔNG


Váy Đình Bảng buông
Chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống giạ
Chị bảo
đứa nào tìm được lá diêu bông
từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày
Em tìm thấy lá
Chị chau mày
Đâu phải lá diêu bông
Mùa đông sau em tìm
thấy lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãng bên sông.
Ngày cưới chị, Em tìm
thấy lá
chị cười xe chỉ ấm
trôn kim
Chị ba con em tìm
thấy lá
xoè tay phủ mặt
Chị không nhìn!
Từ thuở ấy em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
-Diêu bông hời!...
…ơi diêu bông.

( Hoàng Cầm-1959)



THÔI TA KHÔNG TÌM

Tìm làm chi nữa lá diêu bông,
Cái tình lúc có cũng như không
Dối tôi nàng bảo tìm chiếc lá,
Còn nàng thì... nhảy tót sang sông!

( Trí Thanh-1992)


ĐÃ TÌM THẤY LÁ DIÊU BÔNG

Chết mẹ đây rồi cái lá diêu bông,
Cái lá mu mơ cái lá mông mông
Một thời hào hùng anh đâm lút cán
Cái lá phập phù lành rách như không
Ơ hờ diêu bông nhặt ở hội trường
Làm thuốc cường dương chữa bệnh âm ương
Welcome! Lá diêu bông mát quá
Mỏng hơn lá lú, rắn hơn đồng…

( Thanh Thảo 1992)


THÔI TA CHẲNG THÈM

Thôi ta chẳng thèm tìm lá diêu bông
Cái lá vu vơ, cái lá phiêu bồng
Một thời ngu ngơ một thời trả giá
Cái lá phiêu bồng cái lá không không
Ta hái ven đường nụ hoa cứt lợn
Làm thuốc phong trần chữa bệnh nhân gian
Vĩnh biệt nhé lá diêu bông huyền tưởng
Em cầm che khuôn mặt bẽ bàng

( Bùi Minh Quốc-1992)

BẼ BÀNG

Bẽ bàng chi lá diêu bông
Sao em nỡ vội lấy chồng em ơi
Để sông bên lở bên bồi
Sau luỹ tre để ngậm ngùi tiếng ru
Trời xanh không bởi mây mù
Hắt hiu ngọn gió chiều thu chạnh lòng
Em còn có nhớ anh không?
Người đi tìm lá diêu bông năm nào
Dối tôi em bảo qua cầu
Hiểu ra giờ đã bạc đầu trắng ta!

( Trần Trúc Tâm-1992)



SAO EM CHẬM LẤY CHỒNG

Sao em chậm lấy chồng!
Hay là chưa có lá diêu bông
Hay là cái tính em ngông ngông
Chẳng thằng nào dám tới!
-Em đã bốn mươi tuổi
Có còn trẻ chi đâu
Mà lọc lừa kén chọn.
Anh chỉ thích lá vông
Để gói nem ngày tết
Để nghủ cho ngon lành
Khi nấu canh hay luộc
-Không có lá diêu bông
Nhà em có cây vông
Bốn mươi năm còn khoẻ
Anh có ưng hay không?.

( Lương Trọng Minh-1992)

Thứ Hai, 7 tháng 7, 2008

bút ký




sông ba đôi bờ


Nguồn gốc của các nền văn minh trên thế giới đều khởi phát từ các dòng sông. Phú Yên được thiên nhiên ban tặng cho dòng sông Ba mà vùng hạ lưu là nơi từng phát tích một nền văn minh phát triển khá rực rỡ. Nền văn minh của người Chăm-pa. Sông Ba được ghi vào trong bản đồ của Ptolemée-một sử địa gia Hy Lạp về thế kỷ thứ hai và mang tên Dairios*. Dọc sông Ba ngày nay còn phát hiện nhiều di tích, di vật thuộc văn hoá Chăm như phế tích Thành Hồ ( Hoà Định Đông), tháp Núi Bà ( Hoà Phong) và Tháp Nhạn-lâu nay được xem là biểu tượng của thành phố Tuy Hoà. Kết quả khảo cổ ban đầu phế tích Thành Hồ do Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Phú Yên tiến hành mới đây cho thấy nền văn minh này có niên đại từ thế kỷ V-VII. Nếu lấy mốc thời gian cuối thế kỷ II ( 192) là thời điểm thành lập nhà nước của tộc người Chăm và cuối thế kỷ XVI ( 1578) vùng đất này sáp nhập vào cộng đồng chung lãnh thổ dân tộc cho đến nay thì dòng chảy của lịch sử đã đi suốt chiều dài của hơn 18 thế kỷ và tạo nên diện mạo của vùng đất Phú Yên.
Sông Ba phát nguyên từ đỉnh núi Ngọc Rô cao trên 1500 mét thuộc tỉnh Kon Tum, vòng cung chảy xuống qua các tỉnh Gia Lai, Phú Yên rồi đổ ra cửa Đà Diễn, hoà nhập với biển Đông. Đoạn từ Mặt Hàn trở xuống gọi là Đà Rằng. Nhiều người đã ví sông Đà Rằng như một dải yếm lụa trang điểm cho sự duyên dáng của vùng châu thổ Tuy Hoà. Nhưng về mặt kinh tế, sông Ba-Đà Rằng có ý nghĩa vô cùng lớn. Với chiều dài trên 350 cây số từ thượng nguồn đổ về, sông Ba mang theo tinh lực của đại ngàn trùng điệp về bồi đắp cho sự màu mỡ của đồng bằng. Đôi bờ xuôi theo dòng chảy của sông là những làng mạc sầm uất. Con sông đã nuôi lớn tâm hồn biết bao thế hệ ở vùng đất mà từng được ca ngợi là xứ sở của cơm trước mặt, cá sau lưng. Là vùng của đất phú trời yên.
Không biết tại sao cứ mỗi lần xuôi ngược bên sông Ba là tôi lại nghĩ về chiến dịch đường 5. Có lẽ trong trận chiến này người thân của tôi, người thân của bạn bè tôi và nhiều người nữa đã ngã xuống. Có lẽ đây là trận chiến ác liệt nhất và có quy mô lớn nhất của quân và dân Phú Yên. Hay là trận chiến có ý nghĩa quan trọng trong cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, phá vỡ chiến lược co cụm, cố thủ duyên hải miền Trung của quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Cũng có thể là do tất cả. Nhưng vì lẽ nào đi nữa thì chiến thắng đường 5 cũng là niềm tự hào của quân và dân Phú Yên, là một dấu son trong trang sử đấu tranh cách mạng hào hùng của dân tộc mà mỗi người dân trên mảnh đất này đều không được quên. Sông Ba như tấm lòng người mẹ, lặng lẽ chứng kiến những thăng trầm dâu bể, xoa dịu nỗi đau chiến tranh và ghi nhận chiến tích hào hùng của mảnh đất và con người nơi đây.
Đã gần 30 năm kể từ thời điểm diễn ra trận chiến đưòng 5 nhưng đồng chí Chín Cao-người bí thư tỉnh uỷ năm xưa vẫn nhớ như in từng chi tiết của chiến trường này. Mùa xuân năm 1975 cục diện chiến trường có những chuyển biến có lợi cho ta. Bộ chính Trị nhận định có thể sẽ tổng tiến công giải phóng miền Nam trong năm 1975-1976. Phú Yên được chỉ đạo chuẩn bị chiến trường và giải phóng vùng đồng bằng của tỉnh. Vì vậy khi quân chủ lực tấn công Buôn Mê Thuộc ngày 10/3 thì lực lượng của tỉnh đánh hai huyện Tuy Hoà 1 và Tuy Hoà 2. Sau khi Buôn Mê Thuộc thất thủ, ngày 14/3 Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố bỏ Tây Nguyên rút về lập phòng tuyến cố thủ vùng đồng bằng duyên hải miền Trung chờ thời cơ tái chiến Tây Nguyên. Đây là cuộc rút quân có ý nghĩa rất quan trọng trong chiến lược quân sự, vì vậy Thiệu cử tướng Trần Văn Cẩm ra Tuy Hoà chỉ huy cuộc rút lui chiến lược. Nhận định được ý đồ của địch, với mục tiêu là tiêu diệt và bắt gọn đội quân từ Tây Nguyên xuống, Bộ Tư lện Quân khu V của ta đưa sư đoàn 3 chốt chặn đường số 19 ( Quy Nhơn-Gia Lai) và sư đoàn 10 chốt chặn đường 21 (Ninh Hoà-Buôn Mê Thuộc). Đây là hai con đường chiến lược từ đồng bằng lên Tây Nguyên. Nhưng để tạo yếu tố bất ngờ cho quân giải phóng, tướng Cẩm không thực hiện di chuyển quân theo hai con đường này mà đi theo đường số 7-là một con đường nhỏ. Sở Chỉ huy tiền phương của Phú Yên thấy rằng khó có khả năng địch di chuyển theo đưòng số 7 vì đường này rừng núi rất khó đi, không phát huy được sức mạnh cơ giới và vũ khí hiện đại nếu gặp quân giải phóng. Hơn nữa cứ điểm Núi Tranh tại xã Hoà Quang để kiểm soát đường 7 và yểm trợ cho quân Tây Nguyên đã bị ta tiêu diệt. Vì vậy khi quân Tây Nguyên di chuyển đến gần Củng Sơn thì rất lúng túng. Trong khi đó Sở Chỉ huy tiền phương của ta phát hiện địch dùng công binh và máy bay chở vật dụng bắt cầu phao qua sông Ba. Đồng thời chúng tăng cường lực lượng pháo từ Cầu Cháy lên cứ điểm Hòn Kén-xã Hoà Phong. Cùng lúc này bộ phận thông tin kỹ thuật của ta nắm bắt được một bức điện của tướng Phú-Tư lệnh vùng II chiến thuật có nội dung:” Cử một Đống Đa ủng hộ, đi cùng một chim én nghiên cứu con rồng xanh để le lưỡi qua con rồng xanh”. Từ bức điện này ta càng nắm chắc hơn việc địch sẽ vượt sông Ba theo đường số 5 di chuyển về thị xã Tuy Hoà.
Tôi hỏi:-Thưa bác, vậy là ta không theo đúng lệnh của quân khu là chốt chặn đánh địch ở đường số 7?
- Theo lệnh của trên chứ? Vẫn bố trí lực lượng chốt giữ đưòng số 7 nhưng chủ yếu là tập trung ở đường 5 và đúng là địch đã di chuyển theo đường 5.
Tại nhà riêng ở số 513 đường Trần Hưng Đạo, thị xã Tuy Hoà, đại tá Trần Văn Mười-nguyên trưỏng ban tác chiến của tỉnh đội Phú Yên trong chiến dịch đường 5 cũng hào hứng kể về 7 ngày đêm ác liệt ở chiến trường đường 5. Đối với ông, 18 tuổi vào bộ đội, từng chỉ huy và tham gia hàng trăm trận đánh lớn nhỏ nhưng trận đường 5 là trận đánh lớn nhất và có nhiều ý nghĩa. Tôi hỏi ông:
-Với chiến dịch đường 5, lực lượng ta chỉ là bộ đội địa phương với số lượng ít hơn nhiều lần so với địch, lúc đó ta có tin chắc rằng sẽ thắng?
-Đó là điều đáng nói!
Đôi mắt của vị đại tá dạn dày trận mạc, từng lăn lộn khắp các chiến trường ở Phú Yên chợt nhìn về một nơi xã xôi nào đó. Ông phân tích: địch di chuyển chiến lược sau khi thất thủ ở Buôn Mê Thuộc là tâm lý đã dao động. Đã rút lui tức là thất bại. Mặc dù rút lui chiến lược nhưng chiến thuật không rõ ràng. Từ kế hoạch di chuyển theo đường 7 nhưng chuyển sang đường 5 chắc chắn địch sẽ không chủ động được trong việc đánh giá đối phương. Còn ta là người chủ động bố trí chiến trường, đánh giá đúng địch, chỉ huy linh hoạt và vận dụng chiến tranh nhân dân. Từ những yếu tố này nên ta tin tưỏng sẽ thắng địch.
Đêm 19/3 ta đã tiêu diệt hàng loạt các cứ điểm, quét sạch địch ở 5 xã là Hoà Thịnh, Hoà Đồng, Hoà Tân, Hoà Phong và Hoà Mỹ. Đánh lui các đợt phản kích của địch từ Tuy Hoà lên, từ Nha Trang ra để đón quân Tây Nguyên xuống. Ta đã làm chủ hơn 10 cây số của đường 5. Lúc này ngoài lực lượng tại chỗ, quân Tây Nguyên xuống đã vượt cầu phao sang đường 5 gồm 20.000 quân với 2000 xe quân sự cùng vũ khí, đạn dược của một đội quân chuyên nghiệp. Với sự tương quan lực lượng rất lớn nên ta không để các lực lượng địch gặp nhau mà chia cắt để tiêu diệt. Trận đánh mở màng cho chiến dịch đưòng 5 để tiêu diệt quân Tây Nguyên xuống là chiều ngày 19/3 khi địch cho 5 xe bọc thép từ Hòn Kén chạy xuống. Ta đã tiêu diệt cả 5 xe này buộc địch phải dừng cả đoàn quân và xe pháo. Thất bại đầu tiên khi đến đưòng 5 làm cho tướng Trần Văn Cẩm vô cùng hoảng sợ. Chúng không biết lực lượng nào tấn công. Tướng Cẩm thúc giục tỉnh trưởng Phú Yên Vũ Quốc Gia tăng cường phản kích từ nhiều hướng để mở đường máu cho quân Tây Nguyên rút xuống nhưng không thành công. Vì vậy từ cuộc di chuyển chiến lược đã trở thành cuộc tháo chạy của quân Tây Nguyên. Không di chuyển được bằng quân sự, địch dùng hơn 350 xe hon- da cải trang làm thường dân để tháo chạy. Mỗi xe hon-da chở 3 người kẹp theo súng hòng đánh lừa quân cách mạng nhưng ta đã phát hiện tiêu diệt và bắt sống hơn 420 tên. Trước tình hình này, tướng Phú-Tư lệnh vùng II chiến thuật đi máy bay thị sát chiến trường và tìm cách để tiêu diệt bộ phận chỉ huy chiến dịch của ta. Tướng Phú dùng điện đàm gọi cho sở chỉ huy của ta để định vị mục tiêu cho không quân ném bom.
Tướng Phú:
-A lô! Cho tôi gặp chỉ huy cao nhất của các ông!
Ông Mười:
-Ông có thể nói với tôi.
Tướng Phú:
-Các ông cần nhân đạo, để cho nhân dân đi về thị xã Tuy Hoà!.
Tắt máy.
Sau cuộc trao đổi ngắn này, mạng kỹ thuật vô tuyến của ta nghe được tướng Phú ra lệnh cho lực lượng không quân nguỵ:
- Cho chim én ỉa tại…!
-Ỉa lỏng hay đặc?
-Lỏng!
Ỉa “lỏng” là đánh bom xăng, còn “đặc” là bom công phá.
Sở chỉ huy của ta lập tức di chuyển khỏi vị trí cũ. Vừa lúc đó không quân địch oanh tạc băm nát cả núi Hương-nơi sở Chỉ huy chiến dịch đang đóng. Có một loạt bom xăng đã đánh trúng hầm của đồng chí Chín Cao nhưng đồng chí đã vừa kịp di chuyển sang nơi khác.
-Thật hú hồn! Hiện nay trên núi Hương vẫn còn dấu 3 hố bom xăng đó!- ông Mười lau mồ hôi trán nói.
Sau trận oanh tạc để tiêu diệt Bộ chỉ huy chiến dịch của ta nhưng không thành công, địch tiếp tục tìm mọi cách để tháo chạy. Ác liệt nhất là trong những ngày 21, 22, 23/3, địch huy động tất cả các lực lượng bộ binh, không quân, pháo binh…để mong mở được đường máu cho quân Tây Nguyên tháo chạy về thị xã Tuy Hoà. Trận địa đường 5 bị bom đạn cày tan hoang không còn một ngọn cây, cọng cỏ nhưng ta vẫn giữ vững trận địa để đánh địch. Đến ngày 24/4, quân chủ lực của ta theo đường 7 bám đuôi địch đánh xuống, cùng tiểu đoàn 96 đánh lên đã giải phóng Củng Sơn và vượt sông Ba đánh giải phóng huyện Phú Đức ngày 25/3 rồi đuổi địch theo đường 5. Địch cho cắt cầu phao để chặn đường quân chủ lực làm cho rất nhiều binh lính và xe cộ của chúng rơi xuống sông chết đuối. Lúc này đội hình quân Tây Nguyên tan tác thảm hại, mạnh ai nấy trốn chạy. Nhân dân các xã trong vùng nổi lên bắt tù binh giao cho quân cách mạng. Trong số tù binh này có cả đại tá Đồng là lữ đoàn trưởng thiết giáp của quân Thiệu. Chiến dịch đưòng 5 ta đã chiến thắng hoàn toàn.
Chiến thắng đường 5 là ta đã phá vỡ được chiến lược co cụm cố thủ tuyến duyên hải niền Trung, làm đảo lộn thế trận của Nguyễn Văn Thiệu và tạo ra lực rất lớn, để sau đó ta giải phóng thị xã Tuy Hoà rồi giải phóng toàn tỉnh Phú Yên vào ngày 1/4/1975. Rồi cùng với cả nước thực hiện thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam ngày 30/4/1975.
Ngừng tiến súng, những người con chiến sĩ của quê hương trở về cây dựng cuộc sống mới từ trong đống đổ nát. Chiến công nào mà không gắn với những đau thương mất mác? Qua gần 30 năm khắc phục hậu quả chiến tranh, đau thương mất mác vẫn còn chưa xoá hết trong lòng mỗi con người nhưng các làng quê dọc sông Ba màu xanh đã trở lại. Đường số 5-Ác địa một thời nay được xây dựng to đẹp và trở thành con đường phát triển kinh tế, nối đồng bằng Tuy Hoà với huyện mới Sông Hinh rồi lên Đắc Lắc…Khu vực thuỷ điện Sông Hinh nằm trong trận địa đường 5 xưa. Nhà máy đưòng Đồng Bò là nơi ta chốt chặn, phục kích quân Tây Nguyên trên đường rút chạy. Vùng bãi lầy gần bến đò Tịnh Sơn là nơi địch bắt cầu phao cho quân Tây Nguyên từ đưòng số 7-Sơn Hoà sang đường số 5, nay đang được xây dựng công trình thuỷ điện Sông Ba Hạ. Sông Ba-“con rồng xanh”-như mật danh của không quân địch thời chiến tranh đang chuẩn bị hoá thân thành nguồn sáng và năng lượng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Các con đường số 5-nay là ĐT 645 và đường số 7-nay là Quốc lộ 25 ngày càng đóng vai trò huyết mạch trong mối quan hệ liên kết phát triển kinh tế-xã hội giữa các vùng. Phú Yên sẽ ngày càng khẳng định vai trò trong khu vực khi các con đường này được nâng cấp cùng với việc xây dựng tuyến đường sắt, đường ống dẫn dầu dọc theo lưu vực sông Ba, thành tuyến giao thông giữa Phú Yên với Tây Nguyên và xuyên quốc gia, tạo nên một hành lang kinh tế lớn giữa các nước khu vực Đông Nam Á như Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan…
Sóng gió đã đi qua. Sông Ba ngày nay như mặt gương soi bóng những làng quê trù phú. Sông vẫn cần cù cái dòng chảy ngàn đời để bồi đắp cho châu thổ. Một tiếng cá quẫy trong chạng vạng chiều hôm làm nao nao mặt sóng. Tôi bỗng nhớ bài thơ “Những dòng sông” của nhà thơ Bế Kiến Quốc. Những câu thơ về một dân tộc anh hùng của một thời đại anh hùng:
"...Sinh ra ở đâu mà ai cũng anh hùng
Tất cả trả lời sinh bên một dòng sông!"
Các nền văn minh của nhân loại đều khởi nguồn từ những dòng sông. Những người anh hùng được sinh ra bên các dòng sông và Phú Yên có một dòng sông Ba.

Tuy Hoà, tháng 4/2005- Trí Thanh


* Theo “ Non nước Phú Yên” của Nguyễn Đình Tư-NXB Thanh Niên 2004

bút ký


MUỐI ƠI!...


Lại một năm nữa dân làm muối ở Tuyết Diêm-huyện Sông Cầu phải gặp cảnh lao đao. Cái nghề đầy khổ nhọc để chắt chiu tinh túy của trời đất đem vị mặn cho đời mà thường phải nhận lấy sự bạc bẽo của nó. Làng muối lại có thêm nhiều người bỏ nghề. Ông Nguyễn Kim Phụng - diêm dân của Tuyết Diêm mặt buồn rười rượi nói: " Giá muối liên tục rớt từ 350 đồng xuống 300 đồng, rồi còn 200 đồng một ký. Lỗ nặng!".
Hai tiếng "Lỗ nặng" của ông
Phụng nghe nặng trịch như một dấu chấm hết. Nó khái quát kết cục của những vụ muối thất bát và giá muối không ra gì. Nó như cũng dự báo một quyết định nào đó của ông đối với nghề. Liệu một người sinh ra trên đồng
muối, hơn 50 năm gắn bó với muối như ông có tính bỏ nghề?
Muối Tuyết Diêm từ xưa nổi tiếng là tốt về chất lượng. Hạt muối trắng và chắc, không thua kém muối của các nơi khác như Sa Huỳnh, Hòn Khoí hay muối Mũi Né nên được người tiêu dùng trong khu vực ưa chuộng. Nhưng do sản xuất theo lối thủ công năng suất thấp, giá thành cao hơn những chỗ khác mà muối khó bán. Sản lượng toàn vùng chỉ khoảng 12 ngàn tấn mỗi năm mà dù bán đổ bán tháo cũng còn tồn từ 6 -7 ngàn tấn. Bởi vậy mà diêm dân cứ hớt hải lo tìm nguồn tiêu thụ, ngay ngáy lo đến hạn trả nợ ngân hàng và cuống cuồng lo chạy cái ăn hàng ngày. Những thông tin về dự án nâng cấp, cải tạo đồng muối giai đoạn 2002 - 2010 của UBND tỉnh Phú Yên, dự án xây dựng nhà máy muối Iốt đã được duyệt, dự án về nhà máy tiêu thụ muối sạch 15 ngàn tấn/ năm mà Công ty muối 3 của Đà Nẵng sẽ đầu tư....không ai buồn quan tâm. Họ có lý. Tương lai tốt đẹp cho nghề muối Tuyết Diêm có lẽ còn hơi xa mà họ thì phải lo cho những khó khăn của thực tại.

Những năm gần đây nhiều vùng muối ở nước ta đã dần thay đổi phương pháp làm muối truyền thống, biết áp dụng khoa học kỹ thuật nên có những bước tiến đáng kể về quy mô cũng như năng suất và chất lượng. Nhiều nơi muối được sản xuất theo hướng công nghiệp, sản lượng cao mà chi phí thấp nên dù giá hạ vẫn không sợ bị lỗ. Sản phẩm làm ra không chỉ là mấy món muối tươi, muối hầm mà còn được chế biến thành nhiều sản phẩm đa dạng như muối ớt, bột canh, muối Iốt... hấp dẫn và tiện lợi cho người tiêu dùng. Đời sống càng phát triển thì người tiêu dùng cũng trở nên khó tính - khó tính cả với .... muối! Hạt muối ăn không chỉ là mặn, mà còn phải có hương vị và đẹp về bao bì, mẫu mã. Muối không bị lẫn lộn cát, vỏ sò và tạp chất. Vì vậy đòi hỏi nghề muối phải đầu tư công nghệ để gia công cho sản phẩm mới đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng. Vùng muối Tuyết Diêm khó khăn về vốn, làm ăn nhỏ lẻ và không nắm bắt kịp với thị hiếu người tiêu dùng nên phải chấp nhận "tụt hậu" và thua lỗ.

Xưa nay người ta cứ tưởng rằng nghề làm muối là dễ có ăn. Chỉ phơi nước đại dương là có tiền. Dân làm muối thì không nghĩ như thế. Khi bước vào mỗi vụ người làm muối phải đắp lại bờ vùng, bờ thửa, làm kênh dẫn nước. Riêng công đoạn làm mặt bằng cho đồng muối phải mất ròng rã từ 12 đến 15 ngày gọi là "làm da". Sau khi cày lên và phân lô, diêm dân mỗi ngày phải dùng đầm đập hai lượt cho đến khi mặt sân thật phẳng, thật cứng như bê - tông. Hạt muối có trắng, có sạch, không bị lẫn lộn đất cát là ở khâu "làm da" này. Đây cũng là khâu nặng nhất trong cả quy trình làm muối. Vì vậy đến bây giờ ở Tuyết Diêm vẫn còn lưu truyền câu ca: "Năm đồng một lát cá thu. Lấy chồng xứ Nại chổng khu đập bờ". Xứ Nại là tên gọi xưa của vùng muối Tuyết Diêm. Ngay cái tên gọi cũng gợi lên sự lam lũ và nỗi niềm của nghề làm muối. Con gái muốn trắng da, dài tóc đừng về làm dâu xứ Nại. Để rồi phải bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Để rồi đỏ tóc đen da, chân trần nứt nẻ. Ấy là nói ngày xưa chứ bây giờ không đến nỗi."Bảo hiểm" cho người thợ trên đồng muối đã được trang bị từ đâù đến chân. Chỉ có cái khổ nhọc là vẫn thế!

Quá trình giọt nước "hóa thân" thành muối cũng phải trải qua nhiều giai đoạn theo sự đạo diễn của con người. Trước tiên phải dẫn nước vào một hồ chứa gọi là hồ "chưá lạt", sau đó đưa vào hồ chứa thứ hai gọi là hồ "chứa châm cào". Chưa xong, từ hồ "chứa châm cào" dòng nước còn phải qua hồ chứa chịu " một", hồ chứa chịu "hai" mới được đưa vào ruộng để phơi thành muối. Quy trình này mất khoảng năm ngày. Mỗi công đoạn đòi hỏi người làm muối phải cẩn thận theo dõi thời tiết, độ mặn các hồ. Nếu sơ suất một khâu nào thì mẻ muối trong năm ngày đó coi như "xôi hỏng bỏng không". Muối không đủ độ chín sẽ không chắc hạt và dễ bị chảy nước. Một vụ muối bắt đầu từ tháng Giêng đến tháng chín âm lịch. Đây là thời gian nhiều nắng và gió. Người làm muối phải lao động cật lực trong suốt mùa nắng, gió ấy. Mỗi hạt muối vì vậy nó chứa đựng bao nhiêu là mồ hôi, công sức, bao sự cực nhọc, tảo tần của người thợ trên đồng. Thế nhưng có một cái quy luật thật nghiệt ngã với dân làm muối. Đó là năm nào thời tiết tốt, muối được mùa thì giá lại rẻ như ... muối! Khi mất mùa giá mới cao. Giá cao mà không có muối để bán. Vậy thì cũng bằng không. Xưa nay mấy ai làm muối mà giàu! Ông Sáu Thơm hiện là người làm muối cao tuổi nhất ở Tuyết Diêm. Nhà ông làm muối đã ba đời. Từ thuở Tuyết Diêm còn là vùng rừng ngập mặn đầy cây đước, cây bần. Ở tuổi 80 ông vẫn còn chắc nịch và bền bỉ, có thể cùng con cháu cầm trang cào "tung hoành" suốt cả ngày trên đồng muối. Ông đã một đời gắn bó với muối, nếm trải đủ vị mặn của muối lẫn cái mặn của mồ hôi, đến giờ cũng chưa hết trăn trở vì muối. Ông cất cái giọng trầm đục và mặn như ... muối: "Cái mà tôi buồn nhất là con cháu bây giờ cứ rần rần đòi bỏ nghề muối. Nhiều đứa đã đi Sài Gòn làm mướn rồi!". Nỗi lòng của một diêm dân già! Liệu điều đó có đủ thuyết phục lớp trẻ khi chúng đã chán cái nghề "phơi nước" đầy khổ nhọc và luôn bị thôi thúc tìm cơ hội để vượt qua sự nghèo khó?

Ông Sáu bỏ về từ lâu mà tôi vẫn còn ngẩn ngơ giữa mênh mông đồng muối. Buổi trưa nóng hầm hập và trắng đến nhức mắt. Tôi bị hơi mặn của muối ép đầy buồng phổi, làm môi miệng chát đắng. Hóa ra cái chất khoáng rất cần cho sự sống mà ta vẫn nếm hằng ngày lại không dễ chịu chút nào khi nó trở nên quá dư thừa. Bất giác tôi nhớ câu chuyện của người thương binh già ở làng muối kể về những ngày hoạt động trên rừng nhiều lúc phải ăn tro tranh thay muối. Đôi khi hạt muối còn nhuộm cả máu của cán bộ tiếp tế từ đồng bằng lên bị địch phục kích. Mỗi hạt muối quý hơn cả vàng. Ấy vậy mà bây giờ ...
tháng 6/2003-Trí Thanh
* Ảnh trên: Diêm dân Tuyết Diêm trên đồng muối. ( Kim Long)


bút ký


CÓ MỘT CAO NGUYÊN VÂN HÒA...

Ở độ cao hơn 500 mét so với mặt biển, cao nguyên Vân Hòa như có mang một chút khí hậu của vùng ôn đới. Cái nắng hanh hao và hừng hực mùi gió bấc từ hướng đồng bằng lên đã bị chặn lại tại cái nút thắt An Thọ của Tuy An, làm cho mùa hè ở Vân Hòa như đến chậm hơn. Suốt dọc đường đi, dù cố tìm lại hình ảnh quen thuộc của Vân Hòa hơn mười năm trước nhưng khó ai có thể nhận ra. Mấy cây đa hơn trăm tuổi phía trên truông Bà Diên là nơi nghỉ chân của những người đi chợ phiên leng keng nhạc ngựa nay không còn nữa. Trong ký ức của tôi là một Vân Hòa của những con đường gập ghềnh vó ngựa, những căn nhà lá đìu hiu bám trên triền núi, hay mấy xóm nhỏ mà từ xa trông phảng phất đường nét cô thôn trong những tứ thơ cũ. Không gian giàu chất thơ làm hổn hển trái tim thi sĩ :" Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi, Hổn hển như lời của nước mây"
(thơ Hàn Mặc Tử)
Bây giờ tất cả đã đổi thay, đã hiện diện một cuộc sống mới. Không còn những căn nhà lá nằm hiu hắt như mụn vá trên nền xanh của cao nguyên. Trên các trục lộ, từng dãy nhà kiên cố mọc lên. Dân Vân Hòa đã bắt đầu bám đường, bám vào cái mạch máu giao thông để thuận lợi cho sản xuất, lưu thông, tạo bộ mặt mới cho vùng đất này. Đứng trên con đường mới mở rộng đến hai làn xe chạy tôi bỗng nhớ hình ảnh những người dân vùng cao đi sau từng đoàn ngựa thồ. Ì ạch mang đường, bắp, trái cây vượt hàng chục cây số để đến chợ phiên. Để rồi cuối buổi chợ lại ì ạch thồ hàng thiết yếu về nhà. Bóng người, bóng ngựa cứ thất thểu trong sự cần mẫn và cam chịu... Những hình ảnh đó giờ đây còn chăng chỉ là trong nỗi nhớ của kẻ xa quê lâu ngày về thăm cố hương. Để rồi bất chợt à lên: " Quê mình thay đổi nhiều quá!".
Theo lời những người cao tuổi ở đây thì ông cha họ đã định cư tại vùng ba xã ít ra cũng hơn bốn trăm năm. Đâu vào thế kỷ mười bảy, khi mà Phù Nghiã hầu Lương Văn Chánh đem quân đánh dẹp phương Nam và chiêu tập lưu dân lên khai khẩn vùng đất mới theo chiếu của chúa Nguyễn: "Trên từ nguồn di, dưới từ cửa bể". Những lưu dân này nguyên là binh sĩ của chúa Trịnh trong số ba vạn tù binh bị bắt năm Mậu Tý-1648 . Họ là những người gốc Thanh-Nghệ..nên từ đó hình thành nên các làng mạc với tên gọi phỏng theo quê cũ như phường Hòa Linh, phường Vân Khương, Tân Lập Vân Hòa thôn rồi Vân Hòa trong tổng Sơn Xuân gồm ba xã Sơn Long, Sơn Định, Sơn Xuân mà ngày nay thường gọi là vùng Vân Hòa. Như vậy những cư dân Việt đầu tiên có mặt ở vùng đất trấn biên của một thời này đã lâu. Trải qua bao thăng trầm, đổi thay của thế cuộc để rồi thành quê hương. Để rồi cắm rễ trên đất này đời đời kiếp kiếp. Lịch sử của dân tộc ta là lịch sử của những chiến công để giữ đất và mở đất. Con người gắn với đất và làm nên cái hồn của đất.
Bí thư xã Sơn Định Nguyễn Văn Bồng không giấu niềm tự hào: " Dân ba xã của chúng tôi là dân cách mạng. Không chỉ trong chiến tranh mà cả trong công cuộc xây dựng nhân dân cũng đoàn kết một lòng! Chúng tôi sẽ cùng nổ lực để rút ngắn khoảng cách với đồng bằng!". Vùng Vân Hòa hiện có trên 11.300 hec - ta đất sản xuất, trong đó có 9.000 héc ta đất lâm nghiệp, chủ yếu là rừng tái sinh sau nương rẫy. Đến 80% là đất đỏ bazan. Vì vậy có thể trồng cây công nghiệp và phát triển chăn nuôi. Hiện nay ngoài cây mía địa phương đang triển khai dự án trồng cao su. Qua trồng thử nghiệm cho thấy cây cao su phát triển rất tốt, các chuyên gia đánh giá cao chất lượng mủ.
Qua nhiều thập kỷ thử nghiệm, thử nghiệm rồi thử nghiệm bao nhiêu loại cây mà không mang lại hiệu quả nên nhân dân rất ngại khi nghe triển khai một loại cây trồng mới, thế mà với cây cao su thì người dân tin lắm. Đối với họ đây có thể là cơ hội để thoát nghèo. Để những người nông dân hàng ngàn đời gắn với cái cày, con bò có thể đổi thay, trở thành những công nhân nông nghiệp trong thời đại công nghiệp. Hiện có đến vài trăm hộ xin trồng cây cao su.
Anh Đinh Văn Hoàng, chủ tịch xã Sơn Long là một người nhanh nhẹn và từng trải. Cái chất quân sự của con nhà lính trong anh thể hiện rõ trong cách nói và việc làm. Anh dành gần hai giờ đồng hồ để nói với chúng tôi về kế hoạch phát triển của xã, về những dự tính tương lai để cao nguyên Vân Hòa trở thành "con rồng " phía tây của tỉnh. Đã có dịp đến nhiều tỉnh Tây Nguyên, tìm hiểu con đường phát triển của họ tôi nhận thấy xuất phát điểm của họ cũng có những nét tương đồng như Vân Hòa. Nhưng họ đã mạnh dạn bước ra khỏi nền nông nghiệp truyền thống lạc hậu để chuyển hướng sang cây công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. Việc xác định chuyển hướng của Vân Hòa là chậm nhưng dẫu sao cũng chưa phải là muộn. Theo anh Hoàng, vùng Vân Hòa đã có hai bước đột phá trong phát triển. Đó là năm 1979 ở đây được xây dựng nông trường cà phê, nhờ đó giúp cho dân ba xã biết được cái giá trị đất đỏ bazan và bỏ tập quán độc canh cây lúa, nhưng thực sự đánh thức vùng đất này là các chương trình đầu tư của nhà nước. Đối với một vùng đất còn nhiều gian khó như Vân Hòa nếu không có sự đầu tư của nhà nước thì việc xóa đói còn khó nói gì đến giảm nghèo, đến phát triển! Các chương trình 327, chương trình trung tâm cụm xã, chương trình 135.... bằng tiền tỷ đã truyền cho Vân Hòa một sức sống mới. Trong một lần làm việc gần đây với chủ tịch huyện Sơn Hòa Trương Phước Cường, anh cho biết: " Mới năm 1998 GDP của ba xã chỉ chiếm chưa được 8% trong tổng GDP của huyện, đến 2002 đã lên được 11%. Dự ước đến 2005 GDP của ba xã sẽ chiếm tỷ trọng 20% trong cả huyện". Cái bước vọt 9% trong khoảng thời gian chưa đầy hai năm nữa nói thì đơn giản nhưng để thực hiện được là cần bao nhiêu vấn đề. Nhưng tôi tin là Vân Hòa sẽ làm được nếu phát huy có hiệu quả các nguồn lực điạ phương với sự quan tâm đầu tư của nhà nước. Nếu các chương trình đầu tư đúng hướng và có kế hoạch. Đồng tiền rót thẳng tới đất mà không bị "khúc xạ", không bị " rơi rớt" dọc đường.
Trong chuyến đi Vân Hòa lần này tôi có một quyết tâm là phải đến cho được thôn Hòa Ngãi của bà con đồng bào dân tộc Chăm. Đây là thôn mà lâu nay được xem là tiêu biểu ở huyện Sơn Hòa về thực hiện định canh định cư, về tinh thần đoàn kết xây dựng quê hương. Quả thật nếu không có nóc nhà rông văn hóa tôi không nhận ra đây là thôn của bà con đồng bào dân tộc thiểu số. Trong thôn được quy hoạch khá hiện đại. Có đến 80% là nhà ngói và cần ăng-ten cao vút để bắt sóng truyền hình. Bằng cái giọng đều đều như hát Khan, già làng Ma Gộp kể về những gian nan của cái thời sống du canh du cư (có lẽ ông đã kể hàng trăm lần về chuyện này). Cái kiểu sống mà "Lửa bén tới đâu ăn tới đó" nhưng cũng chỉ được một hai mùa lại phải dắt díu nhau đi. Cuộc sống du canh du cư cứ như lớp đất rừng bị bợt bạt sau mỗi mùa mưa lũ. Đến quá nửa đời người ông và bà con mới cắm làng cố định tại vùng đất này và tạo dựng cuộc sống như ngày hôm nay. Gương mặt Ma Gộp vẫn chưa phai hết nét khắc khổ nhưng cái bụng đã yên. Tôi nhìn thấy đôi mắt ông sáng rực lên một niềm tin.
Buổi trưa trên cao nguyên thật dễ chịu. Cái nắng đầu hè vàng như mật chảy suốt lên màu xanh trù phú của cây trái, của những ruộng mía đến kỳ thu hoạch. Đất và nắng cao nguyên làm cho cái màu xanh thêm óng ả. Đẹp như một tấm thảm lụa mà hơn một ngàn hộ dân vùng ba xã đã cần mẫn, chắt chiu dệt suốt trong 28 năm qua mà từng mũi chỉ, đường kim thấm đẫm tình đất tình người. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi như nghe vọng lại tiếng vó ngựa xa xưa của Phù Nghĩa hầu trên đường đi mở đất. Đất không ngủ, đất đang cựa mình trong cuộc sinh hạ cho cái màu xanh thảo mộc vĩnh hằng. Và từ trong cái màu xanh bạt ngàn, từng dòng nhựa li ti vẫn chảy trong mỗi thân cây....

tháng6/2003-Trí Thanh

Chủ Nhật, 6 tháng 7, 2008

thời sự-suy nghĩ

CÂU CHUYỆN ĐẦU NĂM

Tết Nguyên Đán đi qua đã nhiều ngày nhưng không khí vui xuân vẫn còn tiếp diễn. Hết 3 ngày tết là tiếp đến các lễ hội như hội đua thuyền sông nước, đua ngựa các nơi rồi các chương trình ca nhạc, văn hoá thể thao…Đây cũng là nét độc đáo của một địa phương có nhiều hoạt động văn hoá truyền thống phong phú và đa dạng. Việc tổ chức nhiều hoạt đông văn hoá thể thao trong dịp đầu xuân là điều tốt. Là cơ hội để người dân có điều kiện vui chơi sau một năm lao động vất vả và chuẩn bị bước vào một năm lao động mới, ngoài ra cũng là điều kiện để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá dân gian của từng địa phương.
Dân ta có thói quen chơi tết kéo dài, có nơi không khí vui xuân đón tết kéo dài đến tận cuối tháng Giêng. Thói quen này làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất….Nhưng điều đáng chê trách nhất là không khí này còn được nhiều cán bộ công chức mang đến cả nhiều cơ quan đơn vị nhà nước. Đã gần đến ngày mồng 10 tết nhưng hoạt động ở nhiều cơ quan đơn vị trong tỉnh vẫn chưa đi vào nền nếp. Mới chiều hôm qua chị láng giềng của tôi sang nhà chơi đã than thở: khổ quá, sáng nay đến liên hệ công việc ở một cơ quan kia nhưng người nọ thì nói rằng đó là trách nhiệm của người kia. Tìm người kia thì thường trực cơ quan bảo rằng họ đi cơ sở nắm tình hình, đi công tác địa bàn cuối buổi mới về. Đúng là những công chức mẫn cán, tích cực trong công tác, mới đầu năm đã chịu khó đi cơ sở nắm tình hình. Chị chờ đến cuối buổi rồi những người cần gặp cũng gặp được. Nhưng khi nghe họ nói chuyện với nhau mới biết rằng họ không phải đi công cán mà đi xem hội đua thuyền rồi ghé về “trút hũ” nhà một người quen! Chị chắc lưỡi: làm cán bộ sướng thật, đến mồng 9 còn bỏ công sở để đi chơi tết. Chỉ có dân đen chúng tôi là khổ, muốn liên hệ làm việc gì thì phải chờ chực!
Chuyện bức xúc này không chỉ xảy ra ở một hai nơi như chị kia vừa kể mà là tình trạng chung của nhiều cơ quan đơn vị vào thời điểm sau tết cổ truyền. Hãy rảo một vòng đến các cơ quan đơn vị mà xem. Nhiều nơi cán bộ công chức vẫn còn tụm năm tụm bảy kể chuyện chơi tết hoặc kéo nhau đi “trút hũ” nhà người này người kia. Tệ hại hơn, sau khi đến cơ quan họ rủ nhau tìm một phòng nào đó tổ chức đánh bài ăn tiền….Tuy không đến mức sát phạt như cờ bạc nhưng đây là điều thật đáng trách.
Việc các cơ quan đơn vị do ảnh hưởng không khí tết làm chểnh mảng đến công việc như câu chuyện tôi vừa nêu ở trên chỉ là chuyện nhỏ trong vô số những chuyện mà hiện nay ta vẫn gặp và nghe người dân bức xúc, phàn nàn hàng ngày ở các cơ quan hành chính khi những người được gọi là “đầy tớ” của dân tự do đánh cắp giờ nhà nước để làm việc riêng, và khi dân cần đến thì họ thực hiện nhiệm vụ như một sự ban ơn. Mới đây trong chỉ thị 05 vừa ban hành, Thủ tướng chính phủ đã yêu cầu các cơ quan nhà nước phải quản lý và sử dụng có hiệu quả thời gian làm việc của cơ quan. Cán bộ công chức không được sử dụng thời giờ làm việc vào việc riêng, không đi muộn về sớm, không chơi game trong giờ làm việc, không uống rượu bia trước, trong giờ làm việc…thế nhưng trên thực tế quy định này chưa được các cơ quan đơn vị thực hiện triệt để. Tình trạng cán bộ viên chức chơi game giải trí trong giờ làm việc, la cà quán xá, đi muộn về sớm…vẫn còn tồn tại trong một số cơ quan đơn vị nhà nước. Chẳng những làm ảnh hưởng đến thời gian, hiệu quả công việc mà còn phá vỡ kỷ cương, quy chế của cơ quan nhà nước, làm mất lòng tin ở nhân dân. Đây cũng là vấn đề cần chấn chỉnh trong chương trình cải cách hành chính-một chính sách lớn mà được Nhà nước và tỉnh ta triển khai thực hiện trong nhiều năm qua.
Nói về vấn đề cải cách hành chính, thời gian qua tỉnh ta cũng đã tạo được được một số chuyển biến, từ việc tổ chức liên thông một cửa cho đến việc rút gọn thời gian, giảm bợt thủ tục trong hành chính trong giải quyết công việc. Từ đó đã góp phần làm giảm bớt nguy cơ nhũng nhiễu ở các cơ quan hành chính công và hiệu quả lớn nhất mang lại là kết thúc năm 2007 vừa qua, Phú Yên là tỉnh đứng đầu khu vực miền Trung-Tây Nguyên và thứ 2 trong cả nước về thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI-vấn đề này được đánh giá là chúng ta đã thực hiện được một bước tiến mới trong việc cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài đến hợp tác làm ăn để thu hút đầu tư. Tuy nhiên đó là việc lớn, còn trong mối quan hệ hàng ngày giữa cán bộ công chức ở các cơ quan hành chính công với người dân vẫn chưa được cải thiện. Thủ tục hành chính còn nhiều, những cán bộ công chức-đầy tớ của dân vẫn chưa quen với việc nở nụ cười khi tiếp đón công dân đến liên hệ công việc. Người dân vẫn còn ngại và khổ sở mỗi khi có vấn đề gì cần đến các cơ quan hành chính giải quyết.
Đất nước đã thay đổi rồi. Chúng ta đã bước vào hội nhập, đã ra biển lớn để sánh vai với các nước trên thế giới rồi nhưng cách nghĩ, cách làm của một số người phục vụ nhân dân vẫn còn hạn hẹp và giữ thói quen cũ sẽ không còn phù hợp và là trở lực không nhỏ trong tiến trình hội nhập.
Hiện nay Đảng và nhà nước ta đang phát động cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đây là một cuộc vận động lớn trong toàn Đảng, toàn dân. Mong rằng từ cuộc vận động này, mỗi cán bộ, viên chức trong các cơ quan nhà nước cần phải ý thức được trách nhiệm của mình trong công việc là góp phần vào công cuộc cải cách hành chính của đất nước. Những tư duy và cách làm việc kiểu cũ cần phải thay đổi từ bây giờ. Phải, ngay từ bây giờ.
Trí Thanh