Thứ Hai, 7 tháng 7, 2008

bút ký




sông ba đôi bờ


Nguồn gốc của các nền văn minh trên thế giới đều khởi phát từ các dòng sông. Phú Yên được thiên nhiên ban tặng cho dòng sông Ba mà vùng hạ lưu là nơi từng phát tích một nền văn minh phát triển khá rực rỡ. Nền văn minh của người Chăm-pa. Sông Ba được ghi vào trong bản đồ của Ptolemée-một sử địa gia Hy Lạp về thế kỷ thứ hai và mang tên Dairios*. Dọc sông Ba ngày nay còn phát hiện nhiều di tích, di vật thuộc văn hoá Chăm như phế tích Thành Hồ ( Hoà Định Đông), tháp Núi Bà ( Hoà Phong) và Tháp Nhạn-lâu nay được xem là biểu tượng của thành phố Tuy Hoà. Kết quả khảo cổ ban đầu phế tích Thành Hồ do Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Phú Yên tiến hành mới đây cho thấy nền văn minh này có niên đại từ thế kỷ V-VII. Nếu lấy mốc thời gian cuối thế kỷ II ( 192) là thời điểm thành lập nhà nước của tộc người Chăm và cuối thế kỷ XVI ( 1578) vùng đất này sáp nhập vào cộng đồng chung lãnh thổ dân tộc cho đến nay thì dòng chảy của lịch sử đã đi suốt chiều dài của hơn 18 thế kỷ và tạo nên diện mạo của vùng đất Phú Yên.
Sông Ba phát nguyên từ đỉnh núi Ngọc Rô cao trên 1500 mét thuộc tỉnh Kon Tum, vòng cung chảy xuống qua các tỉnh Gia Lai, Phú Yên rồi đổ ra cửa Đà Diễn, hoà nhập với biển Đông. Đoạn từ Mặt Hàn trở xuống gọi là Đà Rằng. Nhiều người đã ví sông Đà Rằng như một dải yếm lụa trang điểm cho sự duyên dáng của vùng châu thổ Tuy Hoà. Nhưng về mặt kinh tế, sông Ba-Đà Rằng có ý nghĩa vô cùng lớn. Với chiều dài trên 350 cây số từ thượng nguồn đổ về, sông Ba mang theo tinh lực của đại ngàn trùng điệp về bồi đắp cho sự màu mỡ của đồng bằng. Đôi bờ xuôi theo dòng chảy của sông là những làng mạc sầm uất. Con sông đã nuôi lớn tâm hồn biết bao thế hệ ở vùng đất mà từng được ca ngợi là xứ sở của cơm trước mặt, cá sau lưng. Là vùng của đất phú trời yên.
Không biết tại sao cứ mỗi lần xuôi ngược bên sông Ba là tôi lại nghĩ về chiến dịch đường 5. Có lẽ trong trận chiến này người thân của tôi, người thân của bạn bè tôi và nhiều người nữa đã ngã xuống. Có lẽ đây là trận chiến ác liệt nhất và có quy mô lớn nhất của quân và dân Phú Yên. Hay là trận chiến có ý nghĩa quan trọng trong cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, phá vỡ chiến lược co cụm, cố thủ duyên hải miền Trung của quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Cũng có thể là do tất cả. Nhưng vì lẽ nào đi nữa thì chiến thắng đường 5 cũng là niềm tự hào của quân và dân Phú Yên, là một dấu son trong trang sử đấu tranh cách mạng hào hùng của dân tộc mà mỗi người dân trên mảnh đất này đều không được quên. Sông Ba như tấm lòng người mẹ, lặng lẽ chứng kiến những thăng trầm dâu bể, xoa dịu nỗi đau chiến tranh và ghi nhận chiến tích hào hùng của mảnh đất và con người nơi đây.
Đã gần 30 năm kể từ thời điểm diễn ra trận chiến đưòng 5 nhưng đồng chí Chín Cao-người bí thư tỉnh uỷ năm xưa vẫn nhớ như in từng chi tiết của chiến trường này. Mùa xuân năm 1975 cục diện chiến trường có những chuyển biến có lợi cho ta. Bộ chính Trị nhận định có thể sẽ tổng tiến công giải phóng miền Nam trong năm 1975-1976. Phú Yên được chỉ đạo chuẩn bị chiến trường và giải phóng vùng đồng bằng của tỉnh. Vì vậy khi quân chủ lực tấn công Buôn Mê Thuộc ngày 10/3 thì lực lượng của tỉnh đánh hai huyện Tuy Hoà 1 và Tuy Hoà 2. Sau khi Buôn Mê Thuộc thất thủ, ngày 14/3 Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố bỏ Tây Nguyên rút về lập phòng tuyến cố thủ vùng đồng bằng duyên hải miền Trung chờ thời cơ tái chiến Tây Nguyên. Đây là cuộc rút quân có ý nghĩa rất quan trọng trong chiến lược quân sự, vì vậy Thiệu cử tướng Trần Văn Cẩm ra Tuy Hoà chỉ huy cuộc rút lui chiến lược. Nhận định được ý đồ của địch, với mục tiêu là tiêu diệt và bắt gọn đội quân từ Tây Nguyên xuống, Bộ Tư lện Quân khu V của ta đưa sư đoàn 3 chốt chặn đường số 19 ( Quy Nhơn-Gia Lai) và sư đoàn 10 chốt chặn đường 21 (Ninh Hoà-Buôn Mê Thuộc). Đây là hai con đường chiến lược từ đồng bằng lên Tây Nguyên. Nhưng để tạo yếu tố bất ngờ cho quân giải phóng, tướng Cẩm không thực hiện di chuyển quân theo hai con đường này mà đi theo đường số 7-là một con đường nhỏ. Sở Chỉ huy tiền phương của Phú Yên thấy rằng khó có khả năng địch di chuyển theo đưòng số 7 vì đường này rừng núi rất khó đi, không phát huy được sức mạnh cơ giới và vũ khí hiện đại nếu gặp quân giải phóng. Hơn nữa cứ điểm Núi Tranh tại xã Hoà Quang để kiểm soát đường 7 và yểm trợ cho quân Tây Nguyên đã bị ta tiêu diệt. Vì vậy khi quân Tây Nguyên di chuyển đến gần Củng Sơn thì rất lúng túng. Trong khi đó Sở Chỉ huy tiền phương của ta phát hiện địch dùng công binh và máy bay chở vật dụng bắt cầu phao qua sông Ba. Đồng thời chúng tăng cường lực lượng pháo từ Cầu Cháy lên cứ điểm Hòn Kén-xã Hoà Phong. Cùng lúc này bộ phận thông tin kỹ thuật của ta nắm bắt được một bức điện của tướng Phú-Tư lệnh vùng II chiến thuật có nội dung:” Cử một Đống Đa ủng hộ, đi cùng một chim én nghiên cứu con rồng xanh để le lưỡi qua con rồng xanh”. Từ bức điện này ta càng nắm chắc hơn việc địch sẽ vượt sông Ba theo đường số 5 di chuyển về thị xã Tuy Hoà.
Tôi hỏi:-Thưa bác, vậy là ta không theo đúng lệnh của quân khu là chốt chặn đánh địch ở đường số 7?
- Theo lệnh của trên chứ? Vẫn bố trí lực lượng chốt giữ đưòng số 7 nhưng chủ yếu là tập trung ở đường 5 và đúng là địch đã di chuyển theo đường 5.
Tại nhà riêng ở số 513 đường Trần Hưng Đạo, thị xã Tuy Hoà, đại tá Trần Văn Mười-nguyên trưỏng ban tác chiến của tỉnh đội Phú Yên trong chiến dịch đường 5 cũng hào hứng kể về 7 ngày đêm ác liệt ở chiến trường đường 5. Đối với ông, 18 tuổi vào bộ đội, từng chỉ huy và tham gia hàng trăm trận đánh lớn nhỏ nhưng trận đường 5 là trận đánh lớn nhất và có nhiều ý nghĩa. Tôi hỏi ông:
-Với chiến dịch đường 5, lực lượng ta chỉ là bộ đội địa phương với số lượng ít hơn nhiều lần so với địch, lúc đó ta có tin chắc rằng sẽ thắng?
-Đó là điều đáng nói!
Đôi mắt của vị đại tá dạn dày trận mạc, từng lăn lộn khắp các chiến trường ở Phú Yên chợt nhìn về một nơi xã xôi nào đó. Ông phân tích: địch di chuyển chiến lược sau khi thất thủ ở Buôn Mê Thuộc là tâm lý đã dao động. Đã rút lui tức là thất bại. Mặc dù rút lui chiến lược nhưng chiến thuật không rõ ràng. Từ kế hoạch di chuyển theo đường 7 nhưng chuyển sang đường 5 chắc chắn địch sẽ không chủ động được trong việc đánh giá đối phương. Còn ta là người chủ động bố trí chiến trường, đánh giá đúng địch, chỉ huy linh hoạt và vận dụng chiến tranh nhân dân. Từ những yếu tố này nên ta tin tưỏng sẽ thắng địch.
Đêm 19/3 ta đã tiêu diệt hàng loạt các cứ điểm, quét sạch địch ở 5 xã là Hoà Thịnh, Hoà Đồng, Hoà Tân, Hoà Phong và Hoà Mỹ. Đánh lui các đợt phản kích của địch từ Tuy Hoà lên, từ Nha Trang ra để đón quân Tây Nguyên xuống. Ta đã làm chủ hơn 10 cây số của đường 5. Lúc này ngoài lực lượng tại chỗ, quân Tây Nguyên xuống đã vượt cầu phao sang đường 5 gồm 20.000 quân với 2000 xe quân sự cùng vũ khí, đạn dược của một đội quân chuyên nghiệp. Với sự tương quan lực lượng rất lớn nên ta không để các lực lượng địch gặp nhau mà chia cắt để tiêu diệt. Trận đánh mở màng cho chiến dịch đưòng 5 để tiêu diệt quân Tây Nguyên xuống là chiều ngày 19/3 khi địch cho 5 xe bọc thép từ Hòn Kén chạy xuống. Ta đã tiêu diệt cả 5 xe này buộc địch phải dừng cả đoàn quân và xe pháo. Thất bại đầu tiên khi đến đưòng 5 làm cho tướng Trần Văn Cẩm vô cùng hoảng sợ. Chúng không biết lực lượng nào tấn công. Tướng Cẩm thúc giục tỉnh trưởng Phú Yên Vũ Quốc Gia tăng cường phản kích từ nhiều hướng để mở đường máu cho quân Tây Nguyên rút xuống nhưng không thành công. Vì vậy từ cuộc di chuyển chiến lược đã trở thành cuộc tháo chạy của quân Tây Nguyên. Không di chuyển được bằng quân sự, địch dùng hơn 350 xe hon- da cải trang làm thường dân để tháo chạy. Mỗi xe hon-da chở 3 người kẹp theo súng hòng đánh lừa quân cách mạng nhưng ta đã phát hiện tiêu diệt và bắt sống hơn 420 tên. Trước tình hình này, tướng Phú-Tư lệnh vùng II chiến thuật đi máy bay thị sát chiến trường và tìm cách để tiêu diệt bộ phận chỉ huy chiến dịch của ta. Tướng Phú dùng điện đàm gọi cho sở chỉ huy của ta để định vị mục tiêu cho không quân ném bom.
Tướng Phú:
-A lô! Cho tôi gặp chỉ huy cao nhất của các ông!
Ông Mười:
-Ông có thể nói với tôi.
Tướng Phú:
-Các ông cần nhân đạo, để cho nhân dân đi về thị xã Tuy Hoà!.
Tắt máy.
Sau cuộc trao đổi ngắn này, mạng kỹ thuật vô tuyến của ta nghe được tướng Phú ra lệnh cho lực lượng không quân nguỵ:
- Cho chim én ỉa tại…!
-Ỉa lỏng hay đặc?
-Lỏng!
Ỉa “lỏng” là đánh bom xăng, còn “đặc” là bom công phá.
Sở chỉ huy của ta lập tức di chuyển khỏi vị trí cũ. Vừa lúc đó không quân địch oanh tạc băm nát cả núi Hương-nơi sở Chỉ huy chiến dịch đang đóng. Có một loạt bom xăng đã đánh trúng hầm của đồng chí Chín Cao nhưng đồng chí đã vừa kịp di chuyển sang nơi khác.
-Thật hú hồn! Hiện nay trên núi Hương vẫn còn dấu 3 hố bom xăng đó!- ông Mười lau mồ hôi trán nói.
Sau trận oanh tạc để tiêu diệt Bộ chỉ huy chiến dịch của ta nhưng không thành công, địch tiếp tục tìm mọi cách để tháo chạy. Ác liệt nhất là trong những ngày 21, 22, 23/3, địch huy động tất cả các lực lượng bộ binh, không quân, pháo binh…để mong mở được đường máu cho quân Tây Nguyên tháo chạy về thị xã Tuy Hoà. Trận địa đường 5 bị bom đạn cày tan hoang không còn một ngọn cây, cọng cỏ nhưng ta vẫn giữ vững trận địa để đánh địch. Đến ngày 24/4, quân chủ lực của ta theo đường 7 bám đuôi địch đánh xuống, cùng tiểu đoàn 96 đánh lên đã giải phóng Củng Sơn và vượt sông Ba đánh giải phóng huyện Phú Đức ngày 25/3 rồi đuổi địch theo đường 5. Địch cho cắt cầu phao để chặn đường quân chủ lực làm cho rất nhiều binh lính và xe cộ của chúng rơi xuống sông chết đuối. Lúc này đội hình quân Tây Nguyên tan tác thảm hại, mạnh ai nấy trốn chạy. Nhân dân các xã trong vùng nổi lên bắt tù binh giao cho quân cách mạng. Trong số tù binh này có cả đại tá Đồng là lữ đoàn trưởng thiết giáp của quân Thiệu. Chiến dịch đưòng 5 ta đã chiến thắng hoàn toàn.
Chiến thắng đường 5 là ta đã phá vỡ được chiến lược co cụm cố thủ tuyến duyên hải niền Trung, làm đảo lộn thế trận của Nguyễn Văn Thiệu và tạo ra lực rất lớn, để sau đó ta giải phóng thị xã Tuy Hoà rồi giải phóng toàn tỉnh Phú Yên vào ngày 1/4/1975. Rồi cùng với cả nước thực hiện thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam ngày 30/4/1975.
Ngừng tiến súng, những người con chiến sĩ của quê hương trở về cây dựng cuộc sống mới từ trong đống đổ nát. Chiến công nào mà không gắn với những đau thương mất mác? Qua gần 30 năm khắc phục hậu quả chiến tranh, đau thương mất mác vẫn còn chưa xoá hết trong lòng mỗi con người nhưng các làng quê dọc sông Ba màu xanh đã trở lại. Đường số 5-Ác địa một thời nay được xây dựng to đẹp và trở thành con đường phát triển kinh tế, nối đồng bằng Tuy Hoà với huyện mới Sông Hinh rồi lên Đắc Lắc…Khu vực thuỷ điện Sông Hinh nằm trong trận địa đường 5 xưa. Nhà máy đưòng Đồng Bò là nơi ta chốt chặn, phục kích quân Tây Nguyên trên đường rút chạy. Vùng bãi lầy gần bến đò Tịnh Sơn là nơi địch bắt cầu phao cho quân Tây Nguyên từ đưòng số 7-Sơn Hoà sang đường số 5, nay đang được xây dựng công trình thuỷ điện Sông Ba Hạ. Sông Ba-“con rồng xanh”-như mật danh của không quân địch thời chiến tranh đang chuẩn bị hoá thân thành nguồn sáng và năng lượng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Các con đường số 5-nay là ĐT 645 và đường số 7-nay là Quốc lộ 25 ngày càng đóng vai trò huyết mạch trong mối quan hệ liên kết phát triển kinh tế-xã hội giữa các vùng. Phú Yên sẽ ngày càng khẳng định vai trò trong khu vực khi các con đường này được nâng cấp cùng với việc xây dựng tuyến đường sắt, đường ống dẫn dầu dọc theo lưu vực sông Ba, thành tuyến giao thông giữa Phú Yên với Tây Nguyên và xuyên quốc gia, tạo nên một hành lang kinh tế lớn giữa các nước khu vực Đông Nam Á như Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan…
Sóng gió đã đi qua. Sông Ba ngày nay như mặt gương soi bóng những làng quê trù phú. Sông vẫn cần cù cái dòng chảy ngàn đời để bồi đắp cho châu thổ. Một tiếng cá quẫy trong chạng vạng chiều hôm làm nao nao mặt sóng. Tôi bỗng nhớ bài thơ “Những dòng sông” của nhà thơ Bế Kiến Quốc. Những câu thơ về một dân tộc anh hùng của một thời đại anh hùng:
"...Sinh ra ở đâu mà ai cũng anh hùng
Tất cả trả lời sinh bên một dòng sông!"
Các nền văn minh của nhân loại đều khởi nguồn từ những dòng sông. Những người anh hùng được sinh ra bên các dòng sông và Phú Yên có một dòng sông Ba.

Tuy Hoà, tháng 4/2005- Trí Thanh


* Theo “ Non nước Phú Yên” của Nguyễn Đình Tư-NXB Thanh Niên 2004

Không có nhận xét nào: